Từ mấy năm rồi tôi muốn đi đến thành phố ấy, mà cứ lần lữa, hết việc này đến chuyện kia cản trở, bệnh tật, chắc chưa có duyên lành. Không xa lắm, 500 cây số thôi, nhưng cứ ngược đường tôi đi thôi. Tháng chín năm nay, một ngày đầu thu tuyệt đẹp, chúng tôi quẳng lên xe cái va li nhỏ, lên đường đi Nevers.
Nevers là một thành phố nhỏ êm đềm bên bờ sông Loire. Trên đường đi Nevers, chúng tôi đi ngang qua vùng Champagne đang vào mùa hái nho, những triền núi thoai thoải đẩy những ruộng nho xanh ngát phơi mình dưới ánh nắng cuối hè đầu thu. Khi xưa Nevers nổi tiếng vì nghề làm hàng sứ cao cấp, bây giờ trong trung tâm thành phố chỉ còn lại cái bảo tàng đồ sứ và những xưởng thủ công làm đồ sứ ở những con đường nhỏ hẹp đã mai một, đánh dấu một thời huy hoàng của Nevers.
Đến Nevers để cảm ơn một bà cụ già đã đến thăm tôi một lần hơn ba mươi năm về trước và bà đã qua đời lúc nào tôi lơ đãng chẳng quan tâm. Đến bây giờ nhớ lại, bà cụ lọng cọng một mình xách theo cái va li nhỏ, lên xe lửa từ Nevers đi đến Paris, đổi xe lửa ở Paris để đi sang Đức, bà phải vất vả cả một ngày trời di chuyển mới đến được chỗ tôi ở khi ấy. Trong cái va li nhỏ ấy, bà đem theo một cái bánh ngọt tự làm, cái bánh truyền thống làm nhà của người Pháp, đến làm quà cho chúng tôi. Cái bánh quatre quarts rất ngon, và bà dạy tôi, cứ lấy 4 phần bằng nhau, bơ, trứng, bột, đường, mà làm cái bánh. Tôi vẫn còn trông thấy trước mắt dáng người nhỏ nhắn gầy gò của bà ngồi trong chiếc ghế bành duy nhất trong phòng của con gái mới sinh của tôi, im lặng, nhìn tôi thay tã, tắm rửa cho cháu. Bà là bà cố của cháu. Bà ở thăm chúng tôi vài ba ngày, bình yên, rồi lại đi xe lửa về Nevers. Lúc còn trẻ, năng động lại vô tâm vô ý, không biết rằng người già di chuyển khó khăn, mệt nhọc hơn bọn trẻ rất nhiều, không biết trân quý công khó và tình cảm của bà. Đấy là lần duy nhất mẹ con tôi được gặp bà. Lúc bà qua đời bà để lại cho tôi một đôi bông tai vàng và cái áo măng tô lông chồn của bà, nhưng bà nhỏ bé hơn tôi khiến tôi vẫn giữ cái áo quý ấy, không mặc được.
Tôi đến thánh đường của Nevers, thánh đường Saint-Cyr-Sainte-Julitte ngự trị trên một ngọn đồi cao nhìn ra sông Loire, đốt nến, thầm thì lời cảm tạ trễ nải đến bà.
Đã đi đến Lourdes viếng Đức Mẹ thì không thể không đến viếng thánh Bernadette. Đến Nevers cũng để thực hiện lời thầm nguyện hứa của tôi ở Lourdes là sẽ đến thăm nơi chôn cất thánh Bernadette, người đã 18 lần trong vòng 5 tháng năm 1858 lúc cô được 14 tuổi thấy Đức Mẹ hiện ra tại Lourdes và truyền lại phải xây dựng một ngôi nhà thờ ở đấy.
Cũng năm 1858 vào tháng giêng, vài ngày trước hiện tượng Đức Mẹ hiện ra, Bernadette mới được vào lớp học vỡ lòng. Cô bé Bernadette Soubirous 13 tuổi có cha mẹ nghèo sát đất, không biết đọc và cũng không biết viết, khi ấy những trường học đầu tiên được dành cho con trai và chưa có nền giáo dục phổ thông bắt buộc, cô giúp đỡ cha mẹ bằng việc đi lượm những cành cây khô về làm củi, cô bị hành hạ bởi những cơn ho suyễn từ nhỏ, sau này cô bị thêm bệnh lao phổi vì sống trong điều kiện cực khổ, mùa đông không được sưởi ấm, sức khỏe của cô luôn luôn yếu kém.
Đọc những cuốn sách viết về cuộc đời và những huyền thoại thêu dệt chung quanh Bernadette, tôi càng hiểu rõ hơn sự kiện Bernadette 18 lần nhìn thấy Đức Mẹ hiện ra không giản đơn một chút nào cả, tính đến nay đã tròn 160 năm, người hậu sinh càng không thể kiểm nghiệm phải trái, đúng sai, chỉ là niềm tin. Có những điều mà người ta không thể cắt nghĩa bằng lý trí và kỹ thuật hiện đại tân tiến.
Trải qua bốn năm, từ 1858 khi cô bắt đầu công bố nhìn thấy Đức Mẹ hiện ra lần thứ nhất cho đến năm 1862 khi hang động ở Lourdes được chính thức tu sửa và công cuộc xây nhà nguyện bắt đầu, thì Bernadette đã chịu đựng nhiều sức ép từ nhiều phía do nhiều nguyên nhân và mục đích khác nhau.
Ngày 11 tháng 2 năm 1858, khi cô bé kể chuyện thấy hình dáng một cô gái trẻ tuổi mặc áo trắng, thắt lưng mầu xanh, dưới chân là hai đóa hoa hồng vàng hiện ra trên vách đá ở hang Massabielle, thì câu chuyện cô kể có một sức lan tỏa diệu kỳ đồng thời cũng đưa cô vào những tình cảnh khó khăn khôn lường với mọi người chung quanh, nhà thờ và với chính quyền.
Người ta không tin chuyện cô kể, cho là nói dối, chuyện bịa đặt để tụ họp dân chúng, lường gạt để làm giầu, họ gây sức ép với cô để cô chối bỏ những điều cô nói, họ cho là cô điên loạn, thấy ảo ảnh. Cô bé bị dọa nạt bởi người trong làng, bởi các bà sơ dạy học và trẻ con, bị tát vào mặt, bị thẩm vấn nhiều lần bởi những nhân vật có uy tín trong chính quyền, bị chửi rủa, dọa bỏ tù, lập hồ sơ bệnh án, thậm chí họ còn tính đến chuyện bắt nhốt cô vào viện tâm thần. Không biết cô có ý thức được hậu quả những điều cô kể hay không. Cô can đảm nói rằng, cô được chọn vì không ai nghèo hơn cô, không ai dốt nát hơn cô.
Nhưng điều lạ lùng là một mặt không tin Bernadette, một mặt kể từ khi Bernadette được Đức Mẹ hiện ra lần thứ 4 thì cô bé đã thu hút nhiều giáo dân đến cầu nguyện với cô tại hang Massabielle. Phần thì do hiếu kỳ, phần thì tin vào một sự kiện đã xảy ra nhiều lần.
Nhất là sau lần hiện ra lần thứ năm, ngày 25 tháng 2, Bernadette nghe theo lời dùng tay bới đất đúng vào nguồn nước và uống những giọt nước đầu tiên còn nhiều bùn và cô hái một lá cỏ để ăn. Khoảng 350 người có mặt cùng với Bernadette lúc ấy đều kinh ngạc, cho là cô điên. Tờ báo địa phương Lavedan tường trình sự kiện và cho là cô bị kinh giật. Nhưng cũng buổi chiều ngày hôm ấy, một số người trở lại hang Massabielle, khơi vũng nước, để lộ ra một nguồn suối có nước trong và kể từ ngày hôm đó những chai nước suối đầu tiên được đưa về làng.
Ngày 25 tháng 3, Bernadette hỏi hình bóng hiện ra trong nguồn sáng “Xin ‘Cô’ cho biết tên gọi của ‘Cô’ thì được trả lời ‘Ta là Vô nhiễm nguyên tội’ (Que soy era Immaculada Councepciou)”.
Phép lạ đầu tiên của Louis Bouriette nhận được loan truyền đi khiến cho cả ngàn người từ xa đổ về Lourdes và những làng lân cận để tâm lưu ý.
Mọi người đều biết lời hứa của Bernadette sẽ cầu nguyện tại hang Massabielle trong 15 ngày, nên đến ngày cuối cùng của lời hứa 15 ngày thì số giáo dân tìm đến Lourdes để chứng kiến Bernadette cầu nguyện tại hang Massabielle lên đến tám ngàn người, đứng chật ních, một viên cảnh sát phải mở đường cho Bernadette đi qua đám đông. Lúc ra về, Bernadette thấy một cô bé mù được cha mang theo, Bernadette đến gần cô bé mù Eugenie và hôn cô, cô bé cười, Bernadette hôn cô lần nữa, cô bé muốn nhìn thấy người hôn cô, mở băng mắt, và nhìn thấy Bernadette. Đám đông kêu ồ lên phép lạ.
Mới 14 tuổi, cô trở nên một nhân vật khác thường, người được trông thấy Đức mẹ “Vô nhiễm nguyên tội”, giáo dân cũng gây sức ép với cô, họ săn đón cô hầu cắt được một lọn tóc, xé được một mảnh áo của cô, chạm vào người cô, cả đến sợi chỉ may váy cô mặc cũng là vật linh thiêng. Người ta cho tiền, cho quà cáp để được ban phúc lành, được gặp cô… cô đều từ chối, đến cả không nhận một trái táo.
Chỗ dựa duy nhất của cô là các cha sở tại, dần dần có niềm tin vào những điều cô kể qua 18 lần đối thoại với Đức Mẹ, và giáo dân, cùng với sự giản đơn, kiên nhẫn, thành tâm của chính cô. Các câu chuyện cô kể đã được đưa lên mặt báo, tiếng đồn xa về đến tận Paris, giáo dân các nơi lần lượt tìm về Lourdes hầu gặp Bernadette.
Theo truyền thuyết, Napoleon III, thể theo nguyện vọng của vợ là nữ hoàng Eugenie, vào ngày 9 tháng 9 đã cho truyền điện ra lệnh bãi bỏ việc ngăn cản giáo dân đến nguồn nước ở động Massabielle do chính quyền sở tại và tỉnh trưởng Oscar Massy ban hành từ tháng 6. Đến ngày 5.10 thì hang Massabielle được mở vĩnh viễn để dân chúng tự do đến nguồn nước.
Sau một năm, có khoảng 30.000 người tìm đến Lourdes và ai cũng muốn gặp Bernadette, cô là nhân vật chính của sự tôn thờ, vì thế linh mục Peyramale phải tìm cách bảo vệ cô, nhưng cô vẫn muốn ở nhà để giúp đỡ cha mẹ. Nhưng đến tháng một 1860 mới tìm ra giải pháp để đem Bernadette vào tạm trú trong nhà thương của các bà sơ dòng Bác Ái và được theo học trong một lớp học của nhà dòng. Chính ông xã trưởng Anselme Lacade là người đứng ra bảo lãnh về tiền bạc cho cô.
Một đường xe lửa mới nối Lourdes và Pierrefit được mở ra và khánh thành năm 1865 để những chuyến tàu người hành hương được về đến Lourdes.
Bernadette ở Lourdes đến năm 1866 thì rời khỏi Lourdes vĩnh viễn để vào nhà dòng nữ tu Bác Ái (les sœurs de la Charité) tại tu viện Saint-Gildard ở thành phố Nevers, cách Lourdes hơn 700 cây số, ngày xưa đi xe ngựa, phải thay ngựa ở trạm bưu điện (relais de poste) mỗi khoảng 20 cây số, đi cả mấy ngày đường mới đến nơi.
Lúc vào tu viện, Bernadette được 22 tuổi. Thời ấy, muốn vào tu viện thì phải có của hồi môn tùy theo gia đình giầu có nhiều hay ít, vài trăm hay vài ngàn quan tiền vàng, mà nạp vào tu viện. Bernadette không có một xu, được giám mục của Nevers, Théodore-Augustin Forcade, đặc cách bảo lãnh cho vào tu viện. Bởi bà hay đau ốm, không làm được việc gì nặng, nên trong tu viện bà được phân công chăm sóc người bệnh, “dù chỉ là đưa cho người bệnh chén trà ly nước”.
Khi mẹ bà mất, năm 1866, mới có 41 tuổi, và khi cha bà mất năm 1871 (64 tuổi) Bernadette phải ở tu viện, không về được.
Ở tu viện được 13 năm, bà về trời khi còn rất trẻ, năm 1879 mới có 35 tuổi đời vì bạo bệnh.
Bốn mươi sáu năm sau, bà được phong thánh và tháng tám năm 1925, thân xác thánh Bernadette được đặt trong hòm kính và đồng trong nhà thờ dòng nữ tu Bác Ái tại Nevers để mọi người đến viếng tự do.
Đã có nhiều người tìm cách “giải mã” những chuyện đã xẩy ra ở hang Massabielle theo lý trí và khoa học.
Thời Trung cổ những rặng núi cao, chập chùng như rặng núi Pyrénées có sức thu hút con người và trí tưởng tượng phong phú. Sự huyền bí, những phép lạ của Đức Mẹ đồng trinh, cũng những hang động bí ẩn, những con quỷ dữ… là một đề tài truyền thống được những người mê tín lưu truyền miệng cho nhau. Một tin phép lạ xuất hiện là lan tràn truyền miệng ngay tức khắc trong vùng, những người nghèo, người bần cùng, người cùng khổ luôn tin rằng sẽ được cứu nạn. Cô bé Bernadette, tuy không biết chữ, nhưng đã được ru trong những chuyện kể dân gian, địa phương.
Tầng lớp tăng lữ dần dà đứng về phía người dân, không còn thuộc về tầng lớp quý tộc và trưởng giả như trước cuộc Cách mạng dân chủ. Cha xứ nhà thờ ở Lourdes, Marie-Dominique Peyramale, sau một thời gian tỏ vẻ nghi ngờ, cuối cùng đã đứng về phía Bernadette, bảo vệ cho cô bé không bị đem đi nhốt vào nhà thương điên.
Nhiều người hỏi cắc cớ, hình bóng hiện ra nói ngôn ngữ nào, vì biết rằng Bernadette nói tiếng thổ ngữ, không nói tiếng Pháp, mà không hiểu rằng trong vấn đề tâm linh, các cuộc đối thoại không phải là nói lời ra cửa miệng, mà là đón nhận và hỏi cũng như trả lời trong tâm thức.
Giám mục Bertrand-Sévère Laurence của địa phận Tarbes, không mang vẻ khinh khi những gì đến từ nhà quê xa xôi như cũ, mà chấp nhận những sự kiện tâm linh vùng quê để biến nó thành một giải pháp quốc gia, một mặt ông đứng về phía công giáo bình dân, một mặt ông dựa vào thế lực của tầng lớp trưởng giả bảo hoàng.
Khi thẩm vấn Bernadette, sau một thời gian làm việc của hội đồng thẩm định kéo dài 3 năm rưỡi, giám mục Laurence ấn tượng bởi sự cương nghị trước sau như một, sự đơn giản và ngay cả sự “ngu dốt” của cô khiến cho cô không thể nói láo vì cô không biết chữ, và hàng chữ “Que soy era Immaculada Councepciou” do cô lập y lời cô đã nghe chứng tỏ cô không biết bịa đặt, mà khái niệm này bốn năm về trước đức Giáo hoàng Pie IX đã giảng giáo lý về Đức Mẹ đồng trinh. Giám mục Laurence nhận ra rằng câu chuyện của cô bé Bernadette sẽ là một kết nối tuyệt vời hình ảnh Đức Mẹ trong niềm tin công giáo thời đại mới, đồng thời cũng là kết nối giữa đức Giáo hoàng và con chiên ở khắp nơi, cho nên nhà thờ đã quyết định đứng về phía cô.
Những cuộc thẩm vấn của chính quyền thì đã để lại nhiều dấu vết qua các hồ sơ và báo cáo, ảnh chụp… từ cấp dưới lên cấp trên.
Bác sĩ Thérèse Valot cho rằng đó chỉ là hiện tượng tự kỷ ám thị quen biết trong môi trường bệnh án tâm thần học, đó là một sự trộn lẫn giữa di truyền, nguồn gốc gia đình, ảnh hưởng của tôn giáo và sự giản đơn của trình độ hiểu biết của một đứa trẻ con đối với thế giới bên ngoài, tính cách di truyền của sự nghiện rượu là chắc chắn.
Đó là những đánh giá của những người đương thời thế kỷ 19.
Cuộc đời của Bernadette Soubirous đã là đề tài cho nhiều nhà văn nổi tiếng như Emile Zola, Francois Mauriac, Franz Werfel, Joris-Karl Huysmans, Gilbert Cesbron… cũng như mười mấy cuốn phim ảnh.
Trong thời đại hiện tại, đã 93 năm qua, hàng ngày đều có những đoàn hành hương từ khắp nơi đến Nevers. Cả thành phố Nevers về kinh tế, nhất là khách sạn và nhà hàng, như chỉ sống nhờ vào sự hiện hữu của thánh Bernadette. Trước kia các bà sơ đón tiếp khách hành hương 365 ngày và 24/24 tiếng, nhưng nay thì điều kiện đón tiếp đó không thể tồn tại với nhân viên làm công, thay vào đó số lượng khách ghé thăm vài giờ rồi đi ngay tăng lên, khiến cho Nevers lúng túng trong phần khai thác số khách du lịch này. Khu vực tu viện nằm bên cạnh một công viên xanh, có nhiều cây cao vút, thì lại “hoang vắng” đối với du khách muốn cái gì cũng phải có ngay có sẵn, đi vào trung tâm thành phố thì ngại xa, dù là 15 phút đi bộ. Phải nói thêm khách hành hương đến Nevers đều là thành phần có tuổi, có bệnh.
Theo thống kê năm 2018 của báo chí thì hàng năm có khoảng 250.000 du khách đến Nevers để viếng thánh Bernadette, phần lớn đến từ rất xa như Ba Lan, Bresil, Nam Dương, Canada…, họ kết hợp trong một chuyến du lịch luôn cả hai địa điểm Lourdes và Nevers. Từ Paris có đường xe lửa đi về Nevers.
Trong khi đó số lượng khách hành hương tại Lourdes đạt đến trung bình 5 triệu lượt mỗi năm và thâu về khoảng gần 322 triệu €, nếu tính luôn cả chi phí chuyên chở của những đoàn hành hương thì số thâu lên đến 548 triệu €. Lourdes là thành phố thứ hai sau Paris có số lượng giường trọ lớn nhất nước Pháp, 22.200 giường, trước cả Nice.
Năm 1844 thì Lourdes chỉ là một điểm dừng chân dưới rặng Pyrénées, có một lâu đài cổ dùng làm nhà ngục đến thế kỷ 19 và khoảng hơn 4.000 dân, đa số làm nghề nông, thợ đục đá và một vài nhà máy xay bột bằng sức nước ở những con suối. Dân chúng nói tiếng thổ ngữ (occitan gascon) vả ít hiểu tiếng Pháp. Mẹ của Bernadette, bà Louise Casterot-Soubirous, sinh đến 9 lần, Bernadette là con cả, chỉ nuôi được 4 người con, số tử vong của trẻ sơ sinh rất cao, phụ nữ chết trẻ.
Dân số của Lourdes năm 2018 là 14.361 dân, Nevers có 34.228 dân không kể các vùng phụ cận. Lourdes được xây cất nhanh, trở nên giầu có, lộng lẫy, đã hết mất vẻ hoang sơ, nghèo khổ của thời Bernadette. Ai đến Lourdes cũng ráng sức mang nước của Lourdes về nhà. Uống tại chỗ thì nước mát lạnh, trong suốt.
Hiện nay hai thành phố Lourdes và Nevers vẫn tranh cãi với nhau về nơi đặt linh cữu bằng kính trong suốt của thánh Bernadette. Thành phố Lourdes vận động gia đình Soubirous hỗ trợ để đem thánh Bernadette về lại quê nhà, tất nhiên gặp phải sự phản kháng của Nevers.
Mathilde Tuyết Trần
France 2018
Đăng lại từ mttuyet.wordpress.com
Xem thêm:
Mời xem video: Bốn việc cần cân nhắc kỹ trước khi giúp đỡ người khác
Quỹ Bảo tồn di sản văn hóa được thành lập để tiếp nhận nguồn viện…
Chứng khoán có dấu hiệu hồi phục nhưng thanh khoản vẫn duy trì ở mức…
Bắc Kinh đang chuẩn bị trở thành nước nhập khẩu nhiên liệu hạt nhân uranium…
Vì đại diện và biện hộ cho nhiều người tập Pháp Luân Công, ông Vương…
Ông Medvedev tuyên bố cuộc xung đột giữa Moskva và Kiev có thể nhanh chóng…
Mình bỗng nhận ra rằng không cần phải làm thuyết khách thuyết phục bất cứ…