Tổng thống Donald Trump chủ trì cuộc họp nội các vào thứ Ba, ngày 2 tháng 12 năm 2025, tại Phòng Nội các của Nhà Trắng. (Ảnh: Daniel Torok/ Nhà Trắng)
Chiến lược an ninh quốc gia mới của chính quyền Trump đưa ra sự diễn giải rõ ràng nhất về học thuyết nhiệm kỳ hai: Hoa Kỳ sẽ không còn đóng vai “Atlas”, gánh trên vai trật tự toàn cầu, mà sẽ ưu tiên kiểm soát biên giới, sức mạnh công nghiệp và ảnh hưởng không bị thách thức tại Tây Bán Cầu, đồng thời tiếp cận phần còn lại của thế giới với mức độ chọn lọc sắc bén hơn.
Dưới đây là 5 điểm chính của chiến lược và cách chúng tái định hình vị thế toàn cầu của Mỹ—tái cấu trúc các ưu tiên của Washington tại châu Âu, Trung Quốc và Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương, Ukraine, Trung Đông và toàn bộ Tây Bán Cầu.
Chiến lược An ninh Quốc gia mới do chính quyền Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump công bố cảnh báo rằng châu Âu đang phải đối mặt với nguy cơ “xóa sổ nền văn minh” khi các nhà hoạch định chính sách của châu lục này khuyến khích kiểm duyệt, đàn áp các đối thủ chính trị và làm ngơ trước tình trạng nhập cư ồ ạt.
Văn bản mang tính bước ngoặt và có lời lẽ mạnh mẽ được công bố vào thứ Sáu (5/12) cho biết, trong khi EU đang cho thấy những dấu hiệu đáng lo ngại về suy thoái kinh tế thì sự tan rã về văn hóa và chính trị của khối này lại đặt ra mối đe dọa thậm chí còn lớn hơn.
Chiến lược này trích dẫn các chính sách nhập cư được EU hậu thuẫn, đàn áp phe đối lập chính trị, hạn chế ngôn luận, tỷ lệ sinh giảm mạnh và “mất bản sắc dân tộc và lòng tự tin”, đồng thời cảnh báo rằng châu Âu có thể trở nên “không thể nhận ra trong 20 năm hoặc ít hơn”.
Tài liệu lập luận rằng nhiều chính phủ châu Âu đang “kiên quyết theo đuổi con đường hiện tại”, trong khi Hoa Kỳ muốn châu Âu “vẫn là châu Âu” và từ bỏ “sự bóp nghẹt về mặt quy định” – một ám chỉ rõ ràng đến sự bế tắc của Hoa Kỳ với EU về các hướng dẫn nghiêm ngặt về thị trường kỹ thuật số, mà Washington cho là phân biệt đối xử với các gã khổng lồ công nghệ có trụ sở tại Hoa Kỳ như Microsoft, Google và Meta.
Tài liệu kêu gọi các chính phủ châu Âu “giành lại sự tự tin về văn minh của mình” và tự gánh vác trách nhiệm lớn hơn nhiều cho an ninh của chính họ.
Đối với Washington, điều này đồng nghĩa với một sự điều chỉnh vai trò. Chiến lược nêu rõ Mỹ sẽ tiếp tục hỗ trợ các đồng minh NATO, nhưng chủ yếu với tư cách điều phối chiến lược thay vì là bên mặc định đảm bảo an ninh cho lục địa. Thay vì dựa vào binh sĩ và ngân sách Mỹ, châu Âu được kỳ vọng tự tái thiết năng lực phòng thủ, siết chặt biên giới và ổn định chính trị.
Tài liệu viết: “Chúng tôi muốn hỗ trợ các đồng minh trong việc gìn giữ tự do và an ninh của châu Âu, đồng thời khôi phục sự tự tin về văn minh và bản sắc phương Tây của châu Âu”.
“Chúng tôi sẽ phản đối những hạn chế do giới tinh hoa áp đặt và mang tính chống dân chủ đối với các quyền tự do cốt lõi ở châu Âu, khối Anglosphere (khối các nước nói tiếng Anh) và phần còn lại của thế giới dân chủ, đặc biệt là trong số các đồng minh của chúng tôi.”
Sự chuyển dịch này làm nền tảng cho mục tiêu theo đuổi một giải pháp đàm phán chấm dứt chiến tranh ở Ukraine—một “lợi ích cốt lõi” nhằm ngăn sự hao mòn đối với kinh tế châu Âu và cho phép Mỹ tái phân bổ nguồn lực quân sự và công nghiệp sang các khu vực ưu tiên hơn.
Tài liệu mô tả châu Âu là khu vực “có ý nghĩa chiến lược và văn hóa sống còn” đối với Mỹ, với thương mại xuyên Đại Tây Dương được xem là trụ cột của kinh tế toàn cầu và thịnh vượng Mỹ.
Tài liệu nêu: “Không chỉ chúng ta không thể từ bỏ châu Âu—làm như vậy sẽ tự phá hoại những mục tiêu mà chiến lược này hướng tới”, đồng thời khẳng định lợi ích quốc gia của Mỹ là có một châu Âu “mạnh mẽ” và “hợp tác cùng chúng ta để ngăn bất kỳ đối thủ nào thống trị” khu vực.
Ngoài việc chia sẻ gánh nặng an ninh, chiến lược còn kêu gọi điều chỉnh rộng hơn trong tư thế kinh tế và chính trị của châu Âu: mở rộng khả năng tiếp cận của Mỹ vào thị trường châu Âu, tăng cường quan hệ thương mại – quốc phòng với Trung, Đông và Nam Âu; chấm dứt cả nhận thức lẫn thực tế về NATO như một liên minh mở rộng vĩnh viễn; và gây sức ép để các chính phủ châu Âu đối phó với các “thực hành kinh tế thù địch” như tình trạng dư thừa năng lực kiểu trọng thương, đánh cắp công nghệ hoặc gián điệp mạng.
Dù chiến lược khẳng định Trung Quốc vẫn là đối thủ dài hạn hàng đầu của Mỹ, tài liệu mô tả cuộc cạnh tranh chủ yếu mang tính kinh tế hơn là quân sự.
Tài liệu nhấn mạnh việc khôi phục chủ quyền chuỗi cung ứng, bảo vệ các công nghệ trọng yếu, kiểm soát dòng chảy khoáng sản và tái thiết năng lực công nghiệp nội địa thông qua thuế quan và các ưu đãi hồi hương sản xuất.
Tài liệu viết: “Về dài hạn, duy trì ưu thế kinh tế và công nghệ của Mỹ là cách chắc chắn nhất để răn đe và ngăn chặn một cuộc xung đột quân sự quy mô lớn”.
Trong khi các cam kết quân sự tại Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương vẫn được duy trì, chiến lược yêu cầu các đồng minh Mỹ gánh vác nhiều trách nhiệm hơn cho phòng thủ khu vực.
Tài liệu nhấn mạnh rằng “quân đội Mỹ không thể và không nên làm điều này một mình”, báo hiệu sự chuyển dịch gánh nặng kéo dài từ Úc đến Nhật Bản, Hàn Quốc và các đối tác Đông Nam Á.
Chiến lược tuyên bố Mỹ sẽ duy trì hiện diện quân sự đủ để “ngăn chặn hành vi gây hấn ở bất kỳ đâu trong Chuỗi đảo Thứ nhất”, tái khẳng định cam kết với Đài Loan và ổn định khu vực—nhưng như một trách nhiệm chung, không phải gánh nặng đơn phương của Mỹ.
Tài liệu viết: “Nỗ lực ngoại giao của Mỹ nên tập trung thúc ép các đồng minh và đối tác tại Chuỗi đảo Thứ nhất cho phép quân đội Mỹ tiếp cận rộng hơn với cảng và các cơ sở khác, chi nhiều hơn cho phòng thủ của chính họ, và quan trọng nhất là đầu tư vào các năng lực nhằm răn đe hành vi gây hấn”.
“Điều này sẽ liên kết các vấn đề an ninh hàng hải dọc Chuỗi đảo Thứ nhất đồng thời củng cố khả năng của Mỹ và đồng minh trong việc ngăn bất kỳ nỗ lực nào nhằm chiếm Đài Loan hoặc tạo ra tương quan lực lượng bất lợi đến mức khiến việc bảo vệ hòn đảo trở nên bất khả thi.”
Chiến lược cũng kêu gọi các “biện pháp mạnh mẽ” nhằm ngăn bất kỳ “cường quốc thù địch tiềm tàng” nào kiểm soát Biển Đông—tuyến hàng hải quan trọng mà Trung Quốc đang tìm cách thống trị.
Cách tiếp cận kết hợp giữa tái cân bằng quan hệ kinh tế Mỹ – Trung và duy trì trọng tâm răn đe quân sự được mô tả như “một vòng tuần hoàn tích cực”—trong đó răn đe mạnh mẽ giúp mở không gian cho hành động kinh tế kỷ luật hơn, còn hành động kinh tế kỷ luật tạo thêm nguồn lực cho răn đe về lâu dài.
Chiến lược đề ra một chương trình rộng lớn nhằm đối phó ảnh hưởng toàn cầu của Trung Quốc: giảm phụ thuộc vào sản xuất Trung Quốc, siết bảo vệ công nghệ tiên tiến, đảm bảo chuỗi cung ứng khoáng sản trọng yếu và mở rộng hợp tác kinh tế – an ninh với các đối tác Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương để khu vực không thể bị Bắc Kinh cưỡng ép hoặc thống trị.
Chiến lược coi chiến tranh Ukraine là gánh nặng lớn đối với ổn định châu Âu và năng lực chiến lược của Mỹ, cho rằng giải quyết xung đột là thiết yếu để tái cân bằng vị thế toàn cầu của Washington.
Tài liệu viết: “Đó là lợi ích cốt lõi của Hoa Kỳ để đàm phán chấm dứt nhanh chóng các hành động thù địch ở Ukraine, nhằm ổn định kinh tế châu Âu, ngăn leo thang hoặc mở rộng ngoài ý muốn, và tái lập ổn định chiến lược với Nga, cũng như tạo điều kiện cho tái thiết hậu xung đột để Ukraine có thể tồn tại như một quốc gia khả thi.”
Báo cáo lưu ý rằng cuộc xung đột ở Ukraine đã khiến “mối quan hệ giữa châu Âu và Nga… trở nên tồi tệ hơn”, gây bất ổn cho khu vực.
Báo cáo chỉ trích các nhà lãnh đạo châu Âu vì “kỳ vọng không thực tế” về kết quả của cuộc xung đột, lập luận rằng “phần lớn người dân châu Âu muốn hòa bình, nhưng mong muốn đó không được chuyển thành chính sách”.
Báo cáo cho biết, Hoa Kỳ sẵn sàng “tham gia ngoại giao đáng kể” để “giúp châu Âu điều chỉnh quỹ đạo hiện tại”, tái lập sự ổn định và “giảm thiểu nguy cơ xung đột giữa Nga và các quốc gia châu Âu”.
Theo tài liệu, theo đuổi một thỏa thuận đàm phán không phải là từ bỏ Ukraine mà là điều kiện tiên quyết để châu Âu ổn định, cải cách và trở thành đồng minh đáng tin cậy.
Cách tiếp cận mới này phù hợp với học thuyết rộng hơn của việc giảm các “gánh nặng toàn cầu kéo dài”, thoát khỏi kỳ vọng rằng Mỹ phải gánh vác quốc phòng dài hạn cho các khu vực khác.
Một trụ cột trung tâm của học thuyết mới là sự tái định hướng địa chiến lược về Tây Bán Cầu, với chiến lược công khai hồi sinh và cập nhật Học thuyết Monroe.
Tài liệu viết: “Hoa Kỳ phải giữ vị thế vượt trội tại Tây Bán Cầu như một điều kiện cho an ninh và thịnh vượng của chúng ta—một điều kiện cho phép chúng ta tự tin khẳng định mình khi và nơi cần thiết trong khu vực”, cho rằng sức mạnh của Mỹ trong và ngoài nước phụ thuộc vào việc đảm bảo an ninh cho bán cầu trước tiên.
Để đạt mục tiêu đó, tài liệu giới thiệu một “Hệ quả Trump” cho Học thuyết Monroe, cam kết ngăn các đối thủ nước ngoài—ngầm chỉ Trung Quốc—thâu tóm các cảng, hệ thống viễn thông hoặc cơ sở hạ tầng then chốt ở Mỹ Latinh.
Tài liệu kêu gọi mở rộng hoạt động hải quân và Tuần duyên, tăng cường trấn áp các cartel ma túy—bao gồm khả năng sử dụng lực lượng sát thương—và thúc đẩy gắn kết thương mại để thay thế đầu tư nước ngoài.
Tài liệu viết: “Chúng tôi muốn một Bán Cầu không bị xâm nhập thù địch hoặc sở hữu các tài sản chiến lược, và hỗ trợ các chuỗi cung ứng trọng yếu”. “Và chúng tôi muốn đảm bảo khả năng tiếp cận liên tục đến các vị trí chiến lược.”
Một phần của chiến lược quyết đoán này là đảm bảo ổn định và quản trị khu vực nhằm hạn chế dòng người di cư vào Mỹ và trấn áp các băng đảng ma túy, “khủng bố ma túy” và các mạng lưới tội phạm khác gây hại cho cộng đồng Mỹ.
Chiến lược xếp Trung Đông vào vị trí khác so với các giai đoạn trước của chính sách đối ngoại Mỹ—vẫn có ý nghĩa chiến lược, nhưng không còn là nơi cho các can thiệp quân sự hoặc kỹ trị chính trị kéo dài vô hạn.
Tài liệu lập luận rằng hàng thập kỷ can thiệp quy mô lớn và nỗ lực xây dựng quốc gia không mang lại sự ổn định bền vững và thường làm tiêu tốn nguồn lực Mỹ khỏi các khu vực ưu tiên hơn. Từ nay, Washington sẽ theo đuổi các mục tiêu thu hẹp hơn: bảo vệ các tuyến hàng hải trọng yếu, bảo vệ đối tác then chốt, kiềm chế khủng bố và ngăn đối thủ thiết lập vị trí đe dọa an ninh năng lượng toàn cầu hoặc lợi ích của Mỹ.
Tài liệu viết: “Mỹ sẽ luôn có lợi ích cốt lõi trong việc đảm bảo nguồn năng lượng vùng Vịnh không rơi vào tay kẻ thù, rằng eo biển Hormuz luôn thông suốt, rằng Biển Đỏ luôn lưu thông, rằng khu vực không trở thành lò ấp hoặc điểm xuất khẩu khủng bố chống lại lợi ích Mỹ hoặc lãnh thổ Mỹ, và rằng Israel luôn an toàn”.
Tài liệu tiếp: “Chúng ta có thể và phải đối phó mối đe dọa này về mặt tư tưởng và quân sự mà không cần những cuộc chiến xây dựng quốc gia vô ích kéo dài hàng thập kỷ”.
“Chúng ta cũng có lợi ích rõ ràng trong việc mở rộng Hiệp định Abraham cho nhiều quốc gia hơn trong khu vực và sang các nước khác trong thế giới Hồi giáo.”
Chiến lược chỉ ra rằng sự thay đổi trong chính sách đối ngoại Mỹ với Trung Đông xuất phát từ thực tế khu vực “không còn là nguồn cơn gây khó chịu liên tục và nguy cơ thảm họa tức thời như trước”, mà đang trở thành nơi của đầu tư và hợp tác.
Nhìn chung, chiến lược mới của Tổng thống Trump củng cố một thế giới quan trong đó sức mạnh Mỹ vẫn vượt trội nhưng tập trung hẹp hơn. Chiến lược đòi hỏi các đồng minh tự lực nhiều hơn, thu hẹp hiện diện quân sự của Mỹ ở các chiến trường xa, và tìm cách khôi phục sức mạnh quốc gia bằng cách ưu tiên các nhiệm vụ gần gũi hơn như an ninh biên giới, phục hồi công nghiệp và ổn định Tây Bán Cầu.
Bảo Minh (t/h)
Biết đủ thường vui, biết dừng mới có thể tiến xa hơn, sống thuận theo…
Ông Putin tại New Delhi, Ấn Độ, đã đưa ra một câu trả lời mang…
Netflix tuyên bố rằng họ hy vọng sẽ tiết kiệm được ít nhất 2 đến…
Theo báo cáo của Minghui.org, kể từ khi Đảng cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) bắt…
Tại phiên thảo luận Quốc hội, các đại biểu cảnh báo 70% vụ ly hôn…
Mỹ công bố bổ sung 750.000 USD viện trợ khẩn cấp, nâng tổng hỗ trợ…