Trong thời gian qua, báo chí trong nước liên tục đưa tin về những vụ giáo viên bạo hành học sinh. Đã có nhiều bài báo bàn về nguyên nhân và đề xuất các biện pháp giải quyết tình trạng này. Bài viết nào cũng có căn cứ và tính thuyết phục của nó nhưng theo tôi tình trạng giáo viên bạo hành học sinh phải được xem xét trong mối quan hệ hữu cơ với một loạt các hiện tượng khác cùng những yếu tố có liên quan. Thêm nữa không nên chỉ nhìn nhận nạn thầy bạo hành trò trong phạm vi hẹp là những hành động “thượng cẳng chân hạ cẳng tay” mà cần khảo sát nó ở phạm vi rộng hơn. Với ý nghĩa đó, ở bài viết này, tôi muốn đề cập tới góc nhìn của nhà giáo dục học người Nhật Tanaka Yoshitaka (1), người đã có ba năm (2004-2007) làm việc ở Việt Nam trong vai trò cố vấn giáo dục. Khi nghiên cứu về mối quan hệ thầy trò ở Việt Nam, Tanaka đã xem xét nó trong sự tương tác của các yếu tố kết thành hệ thống và cho rằng ở Việt Nam mối quan hệ thầy trò ở nhà trường bị phá hỏng vì ở người thầy có sự ngộ nhận nghiêm trọng giữa “quyền lực” và “quyền uy”.
Trong cuốn “Cải cách giáo dục ở Việt Nam: Liệu đã thực hiện được phương châm coi trẻ em là trung tâm?”, do Akashi Shoten ấn hành năm 2008, Tanaka đã phác thảo lại bộ mặt giáo dục Việt Nam và đề cập đến nạn giáo viên bạo hành học sinh. Theo ông một trong những nguyên nhân căn bản dẫn đến tình trạng giáo viên bạo hành học sinh là “sự ngộ nhận giữa quyền lực và quyền uy”. Tanaka cho rằng trong đời sống hàng ngày người ta thường hiểu và dùng hỗn hợp hai từ “quyền lực” và “quyền uy” tuy nhiên trong lĩnh vực giáo dục thì chúng mang hai nội hàm khái niệm khác nhau. Ông dẫn lại luận điểm của nhà nghiên cứu Okada khi giải thích thế nào là “quyền lực” và “quyền uy” cũng như sự khác biệt giữa chúng.
Quan điểm của Okada cho rằng “quyền uy” của người thầy đối với học sinh là việc cho dù người thầy có ý đồ hay không có ý đồ đối với những lời nói, hành động của mình thì học trò vẫn lắng nghe và có thái độ vâng lời. Tuy nhiên ông cũng chỉ rõ không phải người thầy nào cũng có được “quyền uy” và quan trọng hơn là không phải cứ ai làm thầy là có nó. Tại sao? Bởi vì chủ thể cảm nhận được “quyền uy” xét đến cùng là học sinh và “quyền uy” không phải là thứ mà người giáo viên đơn phương tạo ra được. “Quyền uy” của người thầy sinh ra từ quá trình người học sinh tự mình đánh giá giáo viên ở nhiều phương diện và nếu như trong đầu người học sinh bật ra ý nghĩ “A! Đây quả là một người giáo viên đáng kính, một người giáo viên tuyệt vời!” thì trong trường hợp ấy anh ta sẽ tự nguyện trao “quyền uy” cho người thầy. Ở đây một vấn đề khác sẽ lại đặt ra là có thể người giáo viên X có “quyền uy” đối với học sinh Y nào đó (bởi trong thâm tâm học sinh Y đã ngầm đánh giá và trao “quyền uy” cho giáo viên này) nhưng điều đó không thể đảm bảo rằng giáo viên X sẽ có cả “quyền uy” với những học sinh còn lại vì có thể các em không đánh giá cao và tự nguyện trao quyền uy cho giáo viên này.
Tóm lại “quyền uy” là thứ mà học sinh tự nguyện tạo ra rồi trao cho người giáo viên và như thế người đựợc trao “quyền uy” là người thầy mà xét ở một số phương diện ít nhất phải có những đặc tính ưu tú về tài năng và nhân cách. Với ý nghĩa này thì cả Tanaka và Okada đều chủ trương hình ảnh người giáo viên “quyền uy” là hình ảnh đáng trân trọng và nên xây dựng.
Tương phản với “quyền uy” là “quyền lực”. Nếu như “quyền uy” là quà tặng tự nguyện của học sinh cho người thầy, thì quyền lực là thứ mà bản thân người giáo viên có thể đơn phương quyết định. Theo kết quả quan sát và phân tích của Tanaka thì những giáo viên “quyền lực” là những kẻ không hề chú ý đến người xung quanh nhìn mình là người như thế nào? Đánh giá mình như thế nào? Họ coi hành động, lời nói của mình là tuyệt đối và duy nhất đúng. Họ cũng luôn có tham vọng ép người khác phải tuân lệnh. Trong trường hợp người khác không nghe theo, họ sẽ dùng sức mạnh để cưỡng ép. Chính vì thế theo Tanaka, khi xây dựng một nền giáo dục lành mạnh thực sự vì con người, vì tương lai của xã hội cũng như của nhân loại thì người giáo viên “quyền lực” là thứ không một ai có lương tâm mong muốn. Theo lô-gíc đó, một nền giáo dục đầy rẫy những giáo viên “quyền lực” sẽ không bao giờ sinh ra những thế hệ học sinh có tư duy độc lập, có lòng dũng cảm và luôn biết làm người tự do.
Trong ba năm ở Việt Nam với vai trò là cố vấn giáo dục, Tanaka đã đi thực tế nhiều trường phổ thông ở Việt Nam, tham dự nhiều giờ học khác nhau, phỏng vấn nhiều giáo viên và những người làm việc trong ngành giáo dục. Ông đã phân tích những dữ liệu từ nhiều nguồn nói trên để làm rõ những biểu hiện trên thực tế của sự “ngộ nhận giữa quyền lực và quyền uy”.
Khi trực tiếp quan sát các giờ học ở trường tiểu học Việt Nam, Tanaka vô cùng kinh ngạc khi phát hiện ra một thực tế hoàn toàn tương phản với Nhật Bản. Đó là ở Việt Nam trong bất cứ lớp học nào, học sinh cũng thường ngồi yên rất ngoan ngoãn và lắng nghe giáo viên giảng bài. Ông rất ngạc nhiên khi thấy có rất ít học sinh nói chuyện riêng, ngủ gật hay chạy ra khỏi lớp học. Thêm nữa mỗi khi giáo viên đưa ra câu hỏi rất nhiều học sinh giơ tay trả lời một cách nghiêm túc đến mức kinh ngạc với cánh tay đặt vuông góc trên mặt bàn. Tanaka kinh ngạc bởi ông đã quen với chuyện ở nước Nhật trong nhiều trường tiểu học, học sinh có thể ngồi khi phát biểu ý kiến, tranh luận với bạn bè hay giáo viên trong giờ học. Đôi khi học sinh có thể phát biểu mà không cần giơ tay xin phép khi ý tưởng vụt đến. Tại sao học sinh tiểu học Việt Nam lại có tinh thần nhẫn nại và sự chịu đựng bền bỉ đến thế cho dù trong nhiều giờ học giáo viên chỉ đọc đi đọc lại nội dung sách giáo khoa một cách rất nhàm chán? Để trả lời câu hỏi này, Tanaka đã cất công tra cứu, phân tích hồ sơ dự giờ và phát hiện ra rằng tư thế tồn tại và sự hiện diện của người giáo viên trong lớp học rất đặc biệt. Đấy là một tư thế đầy “quyền lực” thay vì có “quyền uy”.
Tanaka đã tỉ mỉ thống kê và phân tích những lời nói của giáo viên trong từng lớp học, từng giờ dạy và thấy rằng những từ ngữ mang tính mệnh lệnh được dùng với tần suất rất cao và phụ họa với nó là tiếng thước nện lên bảng chát chúa. Tiếng “chát” của chiếc thước kẻ dài đập mạnh lên mặt bàn hay mặt bảng đen gây cho Tanaka một ấn tượng choáng váng. Từ đó ông rút ra kết luận “Trong lớp học người giáo viên đã trở thành người có quyền lực tuyệt đối. Người thầy đã trở thành biểu tượng của quyền lực khi nắm trong tay cả tri thức và kĩ năng” (2). Hậu quả là giờ học diễn ra hoàn toàn theo kiểu giao tiếp một chiều. Trước thái độ, hành động và những chỉ dẫn mang tính mệnh lệnh của giáo viên, học sinh đã “không thể phát biểu ý kiến hay ý tưởng của mình. Điều duy nhất có thể làm là nghe theo mệnh lệnh và tìm cách trả lời các câu hỏi có đáp án mà người giáo viên mong muốn” (3). Trong những giờ học như thế hình ảnh học sinh thật tương phản với hình ảnh của giáo viên “Trong giờ học không hề thấy ở các em học sinh dáng vẻ tự nhiên vốn có… thông thường thì lớp học sẽ phải đầy ắp bầu không khí sôi nổi nhưng có vẻ như tinh thần của học sinh ở đây dường như lại ở một thế giới khác” (4).
Suốt thời gian ngồi trong lớp học, học sinh đã phải kìm nén và sự náo động khi tiếng chuông hết giờ vang lên đã nói lên điều đó. Tanka cho rằng nếu tiến hành giờ học kiểu thuyết trình hay đọc sách giáo khoa ở Nhật thì học sinh sẽ nói chuyện riêng với bạn bè trong lớp, gục đầu ngủ hay chạy ra khỏi lớp học. Nhưng ở Việt Nam, học sinh rất chăm chú lắng nghe dù trong lòng rất… chán. Ông cho rằng những biểu hiện trong giờ học cho thấy dù vô thức hay có ý thức, người giáo viên đã gây sức ép lớn lên học trò và ông gọi đây là “sự lạm dụng quyền lực nghề nghiệp”. Sự “lạm dụng quyền lực nghề nghiệp” này là hậu quả tất yếu của việc “ngộ nhận quyền lực của nghề nghiệp là quyền lực của riêng bản thân mình”. Đó là quá trình diễn tiến từ lòng tự tôn của bản thân và sự kính trọng, tin tưởng của xã hội như “nghề giáo viên là nghề đáng kính”, “những lời nói của giáo viên là đúng” thành “ta là người đáng phải được tôn trọng”, “những gì ta nói đều là chân lý”. Đây là một sự ngộ nhận nghiêm trọng và “quyền uy” của nghề nghiệp đã trở thành “quyền lực của cá nhân” và nó gây ra những hậu quả khôn lường. Một khi người giáo viên có quan niệm sai lầm như vậy thì cho dù bản thân người đó thiếu năng lực đi chăng nữa thì mặc nhiên họ coi bản thân mình đã có sẵn “quyền uy”. Hậu quả là trong phần lớn các trường hợp cho dù giáo viên có nói sai, làm sai đi nữa thì bản thân người giáo viên và cả người xung quanh vẫn cho là đúng. Nếu tình trạng này kéo dài sẽ dẫn tới bản thân người giáo viên có cảm giác, ý nghĩ “mình thật là vĩ đại! mình thật là tuyệt vời!” và bằng lòng với vị trí của mình không tiếp tục nỗ lực nữa. Kết cục là người giáo viên đó chẳng những không nâng cao được năng lực nghề nghiệp mà nguy hiểm hơn là bản thân họ không hề nhận thức được mối nguy hiểm của sự nhầm lẫn. Do đó chuyện người giáo viên khăng khăng “tôi đã nói thì học trò dứt khoát phải nghe”, “tôi đã nói là chỉ có đúng” trở thành hiện tượng phổ biến. Hậu quả nhãn tiền là những người giáo viên này sẽ tạo nên hàng loạt những giờ học căng thẳng và vô hồn bởi họ không hề chú ý tới mối quan tâm, hứng thú của học sinh. Họ làm cho học sinh mất đi niềm say mê học tập và không có hứng thú tập trung vào chuyện học hành. Khi ấy người giáo viên chỉ còn cách dựa vào quyền lực mà dồn ép học sinh. Và cứ thế giáo dục quay tít mù trong cái vòng luẩn quẩn.
Khi xem xét giáo dục Việt Nam dưới góc độ xã hội học, Tanaka đã phát hiện ra một điều khiến chúng ta không khỏi giật mình và suy nghĩ: “Người giáo viên Việt Nam có địa vị xã hội cao nhưng địa vị kinh tế lại cực thấp”. Đặc trưng chứa đựng mâu thuẫn này sẽ có liên hệ trực tiếp tới sự nhầm lẫn “quyền lực” và “quyền uy” của người thầy. Trả lời cho câu hỏi tại sao người giáo viên Việt Nam có “quyền uy” lớn Tanaka dẫn ra hai lí do chủ yếu.
Thứ nhất nó xuất phát từ quan niệm về đạo đức của người Việt. Việt Nam từ thời cổ đại đã chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa đặc biệt là tư tưởng Nho giáo Khổng – Mạnh. Những tư tưởng này đã có ảnh hưởng sâu sắc đến xã hội Việt Nam. Người Việt coi trọng các chuẩn mực đạo đức như: nhân nghĩa, trung hiếu, yêu gia đình, coi trọng mối quan hệ thầy trò và quan hệ trên dưới theo lứa tuổi, địa vị xã hội. Trong môi trường xã hội với những chuẩn mực đạo đức đó thì người giáo viên không phải chỉ là “thầy” của học sinh mà còn là “thầy” của cả những người bình thường theo nghĩa rộng.
Thứ hai là do tính “ưu tú” của người giáo viên. Muốn trở thành giáo viên, thông thường người đó phải có bằng cao đẳng hoặc đại học và như vậy trong mắt những người bình thường trong xã hội họ là những người có học và có bằng cấp cao. Mặt khác, tính “ưu tú” còn được thể hiện trong giờ học qua lời nói của giáo viên với ngôn từ trau chuốt, giọng nói truyền cảm, chữ viết trên bảng thì thẳng và đẹp như một tác phẩm nghệ thuật. Khi chứng kiến những thứ đó người dân bình thường sẽ không khỏi ngưỡng mộ.
Ngoài hai lí do chính kể trên, Tanka còn đề cập đến mối liên hệ chằng chịt qua lại giữa việc thực hiện một chương trình – một bộ sách giáo khoa cùng những bất cập trong hệ thống hành chính giáo dục. Đây là những yếu tố cơ bản làm cho người thầy nhầm lẫn giữa “quyền lực” và “quyền uy”.
Theo Tanaka việc thực hiện một chương trình với một bộ sách giáo khoa duy nhất trong thời gian dài đã làm phát sinh hiện tượng “độc quyền chân lý”. Ông phân tích rằng giáo dục Việt Nam do coi trọng tính tuyệt đối của chương trình, sách giáo khoa cho nên giáo viên không có cơ hội để phát huy tính sáng tạo, tự chủ của mình. Giáo viên không tiến hành nghiên cứu nội dung tài liệu giảng dạy hay nội dung học thuật mà chỉ quan tâm đến những nội dung và phương pháp được quy định trong chương trình hay trong sách giáo khoa, sách hướng dẫn giáo viên mà thôi. Họ cũng thiết kế bài giảng chỉ căn cứ trên cảm tính chủ quan của bản thân mà không hề tính đến việc làm thỏa mãn mối quan tâm, hứng thú của học trò. Thêm nữa quan niệm truyền thống phổ biến ở Việt Nam coi mục đích giáo dục là “truyền đạt kiến thức” hay “cung cấp tri thức” đã nhốt cả giáo viên lẫn học sinh trong một cái khung rất chắc. Hệ thống hành chính giáo dục quá chặt chẽ lại chỉ thiên về mối quan hệ theo chiều dọc (cấp trên – cấp dưới) mà coi nhẹ chiều ngang (quan hệ giữa đồng nghiệp với đồng nghiệp, quan hệ trường với trường, quan hệ trò với trò, quan hệ khu vực với khu vực…) đã làm cho sự ngộ nhận giữa “quyền lực” và “quyền uy” ngày càng trầm trọng gây ra những vấn đề mà giáo dục Việt Nam đang hàng ngày, hàng giờ phải đối mặt.
Những lí luận và dẫn chứng của nhà giáo dục Tanaka vừa tóm tắt ở trên không phải là không có những điểm cần tranh luận và trao đổi tuy nhiên góc độ tiếp cận vấn đề và những nhận xét đáng kinh ngạc của ông sẽ có ích cho chúng ta khi tư duy về giáo dục nước nhà. Khi nền giáo dục đang đối mặt với một hệ thống những vấn đề cơ bản và đòi hỏi một cuộc cải cách chiến lược thì đương nhiên nó sẽ phải gánh trên vai cả sự kì vọng và… tức giận của người dân – những người đang đóng thuế để nuôi giáo dục và ngày đêm trông mong giáo dục tạo nên sự đổi thay tốt đẹp. Người giáo viên đương nhiên sẽ là người tiếp nhận cả hai gánh nặng ấy cho dù nói cho công bằng có những việc họ muốn làm nhưng nằm ngoài tầm tay với. Trong quá trình tìm lối thoát cho giáo dục thì việc tìm kiếm một mô hình giáo dục tức là đi tìm câu trả lời cho câu hỏi “Chúng ta muốn xây dựng một nền giáo dục như thế nào?” là không thể tránh khỏi. Muốn trả lời câu hỏi này lẽ tất nhiên câu hỏi “Chúng ta muốn nhà trường giáo dục nên những học sinh như thế nào?” và “Để giáo dục nên những học sinh đó chúng ta cần những người giáo viên như thế nào?” sẽ lại đặt ra và buộc chúng ta phải trả lời. Điều này có nghĩa là khi phác họa chân dung của nền giáo dục mới, đồng thời cũng là phác họa tương lai của dân tộc Việt Nam, chúng ta không thể không vẽ ra hình ảnh người học sinh mà thực chất đó là người công dân tương lai mà chúng ta mơ ước, cũng như hình ảnh người giáo viên – hai nhân vật đóng vai trò trung tâm của nền giáo dục. Xoay quanh hình ảnh học sinh và hình ảnh người giáo viên cần xây dựng sẽ có nhiều tranh luận nhưng ở đây tôi tán thành ý kiến của nhà giáo dục học Tanaka khi cho rằng nền giáo dục Việt Nam trong tương lai phải là nền giáo dục có nhiều người thầy “quyền uy” thay cho những người thầy “quyền lực”.
Nguyễn Quốc Vương
Nhật Bản, 10/2010
Bài đã in trong sách “Giáo dục Việt Nam học gì từ Nhật Bản”, NXB Phụ nữ, in lần đầu 2017, tái bản lần 3 năm 2018, tái bản lần 4 năm 2021. Mời tìm đọc tại đây.
(1) Tanaka Yoshitaka sinh năm 1964 tại Kyoto, tốt nghiệp khoa kinh tế đại học Shiga (Nhật Bản), lấy bằng thạc sĩ nghành Hành chính quốc tế tại Mĩ. Hiện tại ông là nghiên cứu viên chính của trung tâm phát triển quốc tế, hội viên hội giáo dục học Nhật Bản, chuyên nghiên cứu phát triển giáo dục, phát triển xã hội. Cho đến nay ông đã đến làm cố vấn giáo dục ở nhiều nước châu Á như Thái Lan, Việt Nam, Indonesia…
(2) Tanaka Yoshitaka: “Cải cách giáo dục ở Việt Nam: Liệu đã thực hiện được phương châm coi trẻ em là trung tâm?”, Akashi Shoten, 2008, trang 51.
(3) Tanaka Yoshitaka, sđd, tr.50.
(4) Tanaka Yoshitaka, sđd, tr.50.
Đăng lại từ Facebook Tác giả, dịch giả Nguyễn Quốc Vương
Tham khảo các tác phẩm của tác giả, dịch giả Nguyễn Quốc Vương tại đây
Xem thêm cùng tác giả, dịch giả:
Mời xem video:
Bệnh tiểu đường có thể gây ra rất nhiều tác hại đối với cơ thể,…
Trước tình hình căng thẳng, Hungary đang lên kế hoạch triển khai hệ thống phòng…
Chuẩn Đô đốc Thomas Buchanan tuyên bố rằng Mỹ sẵn sàng sử dụng vũ khí…
Putin: Nếu Mỹ muốn chiến thì Nga cũng phải theo, và tên lửa bắn vào…
HĐGSNN vừa công nhận đạt tiêu chuẩn chức danh giáo sư, phó giáo sư năm…
Ông Vương Đình Huệ có sai phạm trong phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; vi…