Năm 41 sau công nguyên, nhà Đông Hán cử Mã Viện đem quân sang Giao Chỉ đàn áp cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng. Đây là cuộc nam chinh thứ ba kể từ khi Tần Thủy hoàng thống nhất nước Tàu.
Lần thứ nhất vào năm 218 trước công nguyên, nhà Tần cử Đồ Thư đem quân vượt núi Ngũ Lĩnh chinh phục Bách Việt.
Hơn 100 năm sau, nhà Tây Hán cử Lộ Bác Đức đem quân sang chiếm Nam Việt, chấm dứt nhà Triệu, đổi Nam Việt ra Giao Chỉ bộ và mở đầu thời kỳ Bắc thuộc.
Hai cuộc nam chinh này khó chuyển vận lương thực vì trục tiến quân phải vượt qua núi Ngũ lĩnh. Do đó lương thực lần này được Mã Viện cho chuyển vận bằng đường biển.
Để thủy bộ phối hợp được đồng bộ , Mã Viện phải tiến quân theo ven biển. Vừa đi vừa mở đường, riêng việc khai quang, quân sĩ đã phải đốn 1.000 dặm cây rừng.
Mã Viện là một kiện tướng được phong chức Phục ba tướng quân (chức cao tột cùng, chỉ có 2 người được phong là Lộ Bác Đức và Mã Viện). Quân số gồm 8.000 chính quy và 12.000 phụ lực nhưng đều tinh nhuệ. Khi xuất phát là mùa đông, mùa hè năm 42 Mã Viện mới tới Giao chỉ.
Phần vì mệt mỏi trên đường tiến quân, phần vì không quen khí hậu nhiệt đới nên trận đầu giao chiến, Mã Viện bị Hai Bà đẩy lui ở Lãng Bạc.
Chỉnh đốn lại quân ngũ, Mã Viện đánh bại Hai Bà. Thế yếu vì không đồng sức, Hai Bà lui dần, cuối cùng Chị Em trầm mình ở sông Hát Giang.
Tháng chạp năm 44 Mã Viện gửi biểu về trình vua Hán: “Thần xâm nhập đất Giao chỉ, quân số có 12,000 quân phụ lực, kể cả quân chính quy là 20.000 và 100 chiến thuyền, công việc đã hoàn thành.”
Cho quân nghỉ ngơi hết năm ấy, Mã Viện đem quân vào Cư Phong thuộc quận Cửu Chân để truy diệt tàn quân của Hai Bà. Sau đó Mã Viện xâm nhập Lâm Ấp để phô trương thanh thế nhà Đông Hán.
Theo “An Nam chí lược” của Lê Tắc, Mã Viện dựng trụ đồng ở Khâm Châu có khắc dòng chữ “Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt” (cột đồng gãy thì Giao Chỉ không còn). Khâm Châu gần Lạng Sơn ngày nay.
Theo “Vân Đài loại ngữ” của Lê Quý Đôn, Mã Viện dựng cột đồng ở Lâm Ấp.
Sử gia Trần Trọng Kim không nói cột đồng dựng ở đâu nhưng nói người Giao Chỉ đi qua đó đều ném gạch đá vào chân cột để cột đồng khỏi gãy đổ, lâu ngày thành gò rồi mất dấu.
“Khâm định Việt sử chính biên” chép rằng năm 1272 đời Trần Thánh Tông, nhà Nguyên cho Ngột Lương Hợp Thai sang hỏi nơi Mã Viện dựng cột đồng, vua sai Lê Kính Phụ đi hội khám. Kết quả không tìm ra. Năm 1345 đời Trần Dụ Tông, nhà Nguyên lại sai sứ sang hỏi nơi dựng cột đồng, vua cho Phạm Sư Mạnh sang biện giải. Từ đó việc ấy không nói đến nữa.
Theo “Khâm định Việt sử thông giám cương mục”, lời nguyền “đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt” là do người đời sau khẩu truyền, không có căn cứ.
Học giả Đào Duy Anh có viết một bài bằng tiếng Pháp đăng trên “Bulletin des Amis du Vieux Hué” ngày 10-11-1943 nói về cột đồng Mã Viện (Les colonnes de bronze de Ma Vien). Bài này được Nhất Thanh dịch sang tiếng Việt và đăng trên “Tập san Sử địa” số 19-20 năm 1970 của Đại học sư phạm Sài Gòn.
Chúng tôi tóm lược những điểm chính của tác giả như sau.
Ngoài học giả Đào Duy Anh, ông Phù lang Trương Bá Phát cũng luận giải về cột đồng của Mã Viện.
“Tập san Sử địa” số 19-20 năm 1970 của Đại học sư phạm Sài Gòn có đăng bài “Lịch sử cuộc Nam tiến của dân tộc Việt Nam”, tác giả là Trương Bá Phát. Bài này có một đoạn nói về cột đồng của Mã Viện.
Tác giả cũng tham khảo sách “Thủy kinh chú” như Đào Duy Anh nhưng trích đoạn khác như sau:
“Đi từ dòng nước chảy xiết Nam Lĩnh, người ta đến dân tộc Mán ở Nam Giới và đi tiếp người ta tới Hoành Sơn”.
Tác giả cho rằng dân tộc Mán là giống người sau này gọi là Lâm Ấp, vậy Nam Giới là ranh giới giữa Giao Chỉ và Lâm Ấp. Theo tác giả nếu xác định được Nam Giới ở đâu là người ta biết nơi đó Mã Viện đã dựng cột đồng.
Nhân đọc truyện Lý Thường Kiệt của Hoàng Xuân Hãn, tác giả gặp một đoạn như sau:
“Cửa Nam Giới nay gọi là Cửa Sót ở phía nam núi Hồng Lĩnh thuộc phủ Thạch Hà tỉnh Hà Tĩnh. Bờ nam có núi tên là núi Nam Giới. Từ đời Lý về trước, cửa này là cửa bể lớn cuối cùng của nước Nam ta. Có lẽ Nam Giới lấy nghĩa của sự ấy”.
Từ 2 đoạn văn trên đây, tác giả suy ra cột đồng của Mã Viện được dựng trên núi Nam Giới ở bờ nam của Cửa Sót thuộc Hà Tĩnh.
Để suy luận của mình được chặt chẽ hơn, tác giả tham khảo bản đồ trong sách “Le Lin-Yi” của R. A. Stein xuất bản tại Bắc Kinh năm 1947. Theo bản đồ này, sông Nam Lĩnh nói trong đoạn “Thủy kinh chú” trên đây là sông Hà Tĩnh chảy vào Cửa Sót.
Coi tập bản đồ hành chính Việt Nam của Nhà xuất bản bản đồ phát hành năm 2002, chúng tôi thấy Cửa Sót ở về phía nam của Cửa Hội.
Sông Lam Giang chảy ra Cửa Hội và là con sông ở phía nam núi Đồng Trụ. Cửa Hội và Cửa Sót cách nhau chừng 35 km.
Như vậy suy đoán của Đào Duy Anh và Trương Bá Phát không xa nhau bao nhiêu.
Năm 982 vua Lê Đại Hành thân chinh đi đánh Chiêm Thành không vì tham vọng chiếm đất nhưng muốn trừng phạt vua nước này về vụ bắt giữ 2 sứ giả được phái sang giao hiếu.
Để mở mang trục lộ giao thông, vua cho vét Tân Cảng và đắp đường từ cửa Nam Giới tới ranh giới châu Địa Lý của Chiêm Thành.
Như vậy từ thời Hai Bà Trưng cho tới đời Tiền Lê, nước ta đã lấn dần từ Cửa Nam Giới tới Địa Lý mà không cần gây chiến .
Chỉ tới năm 1069, vua Lý Thánh Tông thân chinh đi đánh Chiêm Thành; Chế Củ bị bắt giải về Thăng Long, phải xin chuộc mạng bằng 3 châu Địa Lý, Bố Chính và Ma Linh.
Cuộc Nam tiến bằng xương máu bắt đầu từ đó.
Bùi Quý Chiến
Trích đăng từ Đặc San Lâm Viên (www.dslamvien.com)
Tham khảo:
Cước chú:
(1) Để chỉ hướng của bờ sông người xưa dùng 4 phương đông-tây-nam-bắc. Người Âu châu chỉ hướng của bờ sông bằng cách dùng tay phải-trái và mặt hướng theo chiều sông chảy ra biển, thí dụ: Hà Nội ở nam ngạn tức hữu ngạn sông Hồng.
(2) Tượng Lâm là huyện cực nam của quận Nhật Nam thời Bắc thuộc.
Tối 20/11 một vụ đâm chém người đã xảy ra tại ký túc xá của…
Bộ Tài chính đang đề nghị xây dựng dự án nghị quyết của Quốc hội…
Trước bước tiến vững chắc của quân Nga, BBC chỉ ra trong một bài phân…
Gần 150 bộ hài cốt được phát hiện khi công nhân thi công cải tạo…
Các nhà nghiên cứu từ Đại học Tiểu bang Iowa đã phát hiện ra rằng,…
Tổng thống Nga Vladimir Putin hôm thứ Năm (21/11) tuyên bố Moskva có quyền tấn…