Nghề quỳ vàng bạc ở Kiêu Kỵ cũng trải qua những bước thăng trầm. Đặc biệt trong thời gian chiến tranh, nghề quỳ vàng bạc không những kém phát triển mà còn có nguy cơ bị mai một đi nhiều. Phải đến sau chiến tranh thì dân làng Kiêu Kỵ mới tiếp tục phục hồi lại nghề quỳ vàng bạc cổ truyền. Từ chỗ chỉ có chưa đầy một chục hộ làm quỳ nhỏ lẻ, đến những năm gần đây làng đã có tới trên 60 hộ làm quỳ vàng bạc. Trong đó có một số hộ đã trở lên khá giả nhờ biết phát huy nghề thủ công truyền thống của ông cha để lại.
Làng Kiêu Kỵ nằm ở phía bờ Bắc sông Hồng, cách trung tâm Hà Nội khoảng 15 km. Phía Đông giáp làng Trí Trung, phía Tây giáp làng Ngọc Động xã Đa Tốn, phía Nam giáp làng Gia Cốc, phía Bắc giáp đường 5, gần làng Dương Xá.
Xưa kia dân làng Kiêu Kỵ cũng là cư dân nông nghiệp trồng lúa nước ở vùng châu thổ sông Hồng nên cuộc sống của họ còn gặp rất nhiều khó khăn do thiên tai dịch họa. Trong tiến trình lịch sử đó, dân làng Kiêu Kỵ đã xây dựng cho mình một cuộc sống ấm no và thịnh vượng nhờ các nghề thủ công, đồng thời tạo dựng được một nền văn hoá truyền thống phong phú đa dạng.
Nghề quỳ vàng bạc xuất hiện ở làng Kiêu Kỵ cách đây trên 300 năm, dưới thời Hậu Lê. Thuở ấy có ông Nguyễn Quý Trị, người làng Hội Xuyên, xã Liễu Trai Hải Dương, đỗ Tiến sĩ vào năm Quý Mùi, thời Lê Cảnh Hưng (1740-1786) làm quan đến chức Binh bộ Tả Thị lang – Hàn lâm Viện trực học sĩ. Trong một lần Nguyễn Quý Trị đi sứ bên Trung Hoa thì học được nghề dát dập vàng bạc để sơn son thiếp vàng các đồ thờ cúng và hoành phi, câu đối… Khi về nước, ông truyền lại nghề này cho dân làng Kiêu Kỵ.
Sau khi ông Nguyễn Quý Trị truyền nghề quỳ vàng bạc cho dân làng, ngày 17/8 âm lịch năm đó ông bỏ đi đâu không ai rõ tung tích. Để tưởng nhớ tới công ơn của ông, dân làng Kiêu Kỵ đã suy tôn ông là Tổ nghề quỳ vàng bạc, và lấy ngày ông mất tích năm đó làm ngày giỗ Tổ hàng năm. Xưa kia, việc lo cúng lễ vào dịp giỗ Tổ nghề do dân của 4 chạ: chạ Đông, chạ Nam, chạ Đoài và chạ Bắc của làng cùng nhau gánh vác.
Các cụ già có nhiều thâm niên trong nghề quỳ vàng bạc kể lại rằng đây là một nghề độc nhất vô nhị ở nước ta. Kiêu Kỵ lưu truyền gìn giữ được nghề cho đến ngày nay là vì dân làng luôn giữ vững lời nguyền của Tổ sư nghề khi xưa để lại. Tại nơi cột cái của nhà Tràng của cụ Nguyễn Quý Trị có đóng một cái đinh loại răng bừa dài 15 cm với lời thề rằng: “Không ai được truyền nghề này ra ngoài”. Sau này nhà Tràng trở thành nơi thờ cúng Tổ nghề.
Tương truyền rằng ông Nguyễn Quý Trị rất linh thiêng. Người dân trong làng ai muốn học làm nghề quỳ vàng thì đều phải làm lễ khấn Tổ nghề. Nếu ai không làm lễ khấn Ngài thì khi đập quỳ sẽ đập vào tay, và người ta cho rằng đấy là Ngài có ý quở trách, không cho theo nghề này nữa.
Quy trình gia công quỳ vàng bạc phải qua 11 khâu chính và hàng chục khâu phụ:
1. Chế biến mực: Người ta đem nhựa thông nhào với mùn cưa, viên to bằng ngón chân cái. Sau đó lấy cái chảo gang treo lên cao khoảng 15 – 20 cm trong bếp lò để hứng bồ hóng, rồi lần lượt đốt các viên nhựa thông trộn mùn cưa cho khói đen bốc lên tập trung bám vào đáy chảo.
Bếp lò dùng để đốt nhựa thông được xây bằng gạch cao 1,2 – 1,4 m, rộng 1,5 – 2,2 m, để có thể treo được 4-5 cái chảo loại nhỏ có đường kính là 30 cm. Cửa lò rộng chạy dọc theo thân lò, có tấm tôn che cho kín gió khi đun, phía trên có mái che kín và xây một ống thông khói. Đốt hết 10 kg nhựa thông mới được 1 lạng bồ hóng loại một hay còn gọi là mực cái (đọng ở vùng giữa đáy chảo) và một ít bồ hóng loại hai hay còn gọi là mực con (đọng ở xung quanh đáy chảo). Bồ hóng loại một dùng làm mực lướt lá quỳ giống mới tốt, còn bồ hóng loại hai dùng để chế thành mực viết các văn bản chữ Nho và chữ Nôm cũng tốt không thua kém gì mực Tàu chính hiệu. Chính vì vậy mà có người đã lầm tưởng rằng ở làng Kiêu Kỵ xưa kia có cả nghề làm mực Tàu.
Sau đó lấy một bộ da trâu cho vào nồi to, đổ nước ngập da, rồi chất củi vào bếp nấu kĩ thành keo đặc quánh. Việc nấu da trâu cho đến khi thành keo phải kéo dài cả ngày đến hàng chục giờ đồng hồ mới được. Gần đây keo da trâu cô đặc sấy khô mua ở phố Thuỵ Khuê rất tiện không phải nấu như trước nữa.
Bước tiếp theo người ta đem bồ hóng nhào với keo da trâu cho thật nhuyễn theo một tỉ lệ nhất định, rồi đem lọc kĩ loại bỏ cặn hay những cục vón đi. Rồi đem hỗn hợp này cho vào nồi đun sôi lăn tăn, cô đặc. Sau đó lại lấy keo mực ra cho vào cối giã thật kĩ như giã giò thành keo đen đặc quánh, thời gian giã mực kéo dài khoảng 6-7 giờ đồng hồ mới xong một cối. Sau đó đem thứ bột đen mịn này nhào với keo da trâu theo tỉ lệ nhất định thành loại chất lỏng màu đen sẫm đặc sánh; rồi lại lấy xô màn lọc kĩ một lần nữa. Đó chính là quy trình làm mực; mực này trông giống như mực Tàu dùng để lướt bôi hay phết vào giấy dó là giấy bản làm bằng cây dó làm lá giống để đánh quỳ; hoặc lướt vào lá quỳ vỡ để đánh vỡ làm quỳ ở công đoạn sau.
2. Pha giấy dó: Giấy bản mua về rồi đem pha thành miếng nhỏ có quy vuông là 5cm2 (xưa kia người ta pha giấy ra hình chữ nhật). Sau đó xếp thành từng xấp dày có 500 lá quỳ; mỗi xấp giấy như vậy sẽ làm thành một quỳ vàng, hay một quỳ bạc về sau. Rồi tiến hành đưa các buộc giấy đó đi ngâm nước và ép khô.
3. Đập và bóc giấy quỳ: Người ta đem các xấp giấy quỳ dấm nước, ép khô, rồi đem đi đập tất cả 5 lần và bóc 5 lần liền như sau: bóc ướt, nấm giai, thâm tím, bong chập, bóc cải và cải giấy
Một điều cần lưu ý khi lướt và đập giấy quỳ thì phải loại bỏ những tờ giấy bị rách nát ra, nếu sơ ý quên thì lúc cho vàng bạc vào đánh quỳ sẽ bị vỡ vụn, hoặc dàn mỏng không đều làm ảnh hưởng đến chất lượng của quỳ.
4. Lướt mực và đập giấy quỳ giống: Sau khi đập và lướt giấy bản xong thì người ta tiến hành ngay việc lướt mực vào làm giấy giống để đập quỳ. Lướt mực được làm như sau: Người thợ đem các xấp giấy đã qua 5 lần lướt nước và đập khô, rồi dùng chổi nhỏ lướt mực tàu lên hai mặt của từng tờ giấy bản đặt trên bề mặt của hòn đá hình thang nghiêng 35 độ, sau đó phơi lên lá vả để nơi thoáng cho khô. Khi giấy đã khô thì chỉ việc cầm cả chồng lá vả rũ mạnh là các tờ giấy bong ra hết. Những tờ giấy này lại được xếp vào thành từng quỳ 500 tờ, rồi lấy đai buộc chặt lại và tiến hành đập một hồi lâu. Sau đó lại dỡ ra từng lá và lại lướt mực lên, rồi phơi lên lá vả cho khô. Tiếp theo đó xếp lại thành quỳ và lấy đai cột chặt lại và đem đập một hồi lâu. Rồi lại dỡ ra đem lướt mực xong lại phơi trên lá vả cho khô như lần trước, và lại xếp vào quỳ và đập tiếp. Như vậy phải làm tất cả là 3 lần mới được giấy quỳ giống để cho miếng dòng vàng hay bạc vào đánh thành qùy ở công đoạn sau. Đây là phần việc quan trọng nhất mang tính quyết định đến chất lượng của việc dát mỏng vàng bạc sau này. Công việc vừa nêu người trong nghề gọi là làm quỳ cũ.
5. Pha giấy khấu làm lá quỳ vỡ: Giấy khấu cũng làm bằng vỏ cây dó nhưng dầy hơn giấy bản, giống như giấy xi măng. Người ta mua giấy khấu về rồi pha ra thành miếng có quy vuông là 7cm2. Đó chính là miếng giấy dùng để cho các miếng diệp vàng hay bạc vào đánh vỡ. Pha giấy xong xếp lại thành từng xấp dày từ 200 đến 300 lá vỡ, và mỗi xấp giấy này được gọi là một vỡ. Số lượng lá vỡ trong một vỡ tuỳ thuộc vào việc làm quỳ vàng, quỳ bạc cựu hay quỳ bạc tân.
6. Lướt mực và đập giấy quỳ vỡ: Sau khi pha giấy vỡ xong thì đem các lá quỳ vỡ này cho vào nồi luộc kĩ, và vớt ra cho vào bàn ép khô, rồi đập cải. Tiếp đến phải gỡ bong ra từng lá, rồi lướt mực lên các lá vỡ tương tự như lướt lá quỳ và phơi khô trên lá vả, tạo cho các lá vỡ có độ đen nhẵn bóng là được. Công đoạn này người trong nghề gọi là làm quỳ mới hay quỳ dòng.
7. Cán vàng, bạc cũng phải qua các công đoạn sau:
8. Đánh vỡ: Người ta đem nong những miếng diệp đó vào giữa các lá vỡ, rồi buộc thành từng vỡ và xếp hết lượt vào lồng cho lên bếp lò sấy một đêm. Sau đó bít đai chặt lại, và tiến hành đập đều tay bằng búa kê lên phiến đá cho đến khi miếng diệp vàng nhỏ 1cm2 mỏng dàn kín 4 chiều cái vỡ là được. (Tức là theo quy vuông 7x7cm).
9. Cắt dòng: Sau khi đánh vỡ xong thì đem gỡ miếng diệp vàng ra và dùng kéo cắt nhỏ thành 9, hay 12 miếng đều nhau để nong vào giấy quỳ giống đã được chuẩn bị sẵn.
10. Đánh quỳ: Sau khi nong các miếng dòng cắt ra từ quỳ vỡ vào giữa các giấy quỳ giống thành từng quỳ xong thì cũng phải xếp vào lồng và đặt lên bếp lò sấy nóng trong một đêm. Sau đó lấy từng quỳ ra buộc đai vào cho chặt, rồi bắt đầu đập bằng búa tay, kê quỳ lên bàn đá, và đập đều tay cho đến khi miếng quỳ mỏng dính dàn đều ra 4 cạnh lá quỳ (5x5cm) là được. Trung bình mỗi quỳ vàng hay quỳ bạc cựu phải đánh liên tục trong khoảng 1 tiếng đồng hồ mới xong. (Theo cách gọi của người trong nghề là quỳ dừ – tức là lá quỳ mỏng dính dàn đều ra bốn phía không bị rách nát). Theo ước tính 1 chỉ vàng hay 1 chỉ bạc cựu có thể dát mỏng ra được rộng gần 1 mét vuông.
11. Thu thành phẩm: Để thu thành phẩm, trước tiên người ta phải tiến hành pha cắt giấy để trại quỳ bằng loại giấy bản mỏng và nhẵn cả hai mặt, theo kích thước tương ứng với giấy quỳ có quy vuông là 5x5cm. Sau đó xếp giấy và buộc thành từng bó 50 tờ một. Sau khi đánh quỳ xong, những người thợ tinh mắt khéo tay dùng chiếc bay nhỏ nhẹ nhàng gỡ các lá quỳ ra, rồi lần lượt nong vào giữa các miếng giấy bản nhỏ có quy vuông là 5cm2, cho đến khi nào hết một quỳ thì niêm phong thành từng gói.Theo nghề quy định mỗi quỳ vàng hay quỳ bạc có 500 lá quỳ và được bó lại thành 10 buộc. Như vậy mỗi buộc có 50 lá quỳ. Và cứ một chỉ vàng hay bạc đánh được 22 buộc = 2,2 quỳ.
Tất cả các khâu trong quy trình làm quỳ vàng hay bạc kể trên đều được tiến hành theo trình tự rất nghiêm ngặt và không được phép làm lẫn lộn khâu sau lên khâu trước và không được làm tắt hay ăn bớt bỏ đi một khâu nào. Chỉ khâu nấu keo da trâu, khâu giã mực, khâu cán vàng bạc và khâu đánh quỳ là được làm ở chỗ mát thông thoáng còn các khâu khác đều phải làm trong nhà che kín gió. (Nếu có gió thì các lá giấy quỳ nhỏ và các lá quỳ vàng bạc mỏng dính sẽ bay lung tung không thể làm được).
Đặc biệt là khâu cuối cùng thu hồi sản phẩm người làm phải xoa phấn rôm vào tay cho khỏi dính quỳ thì sẽ không bị hao hụt nguyên liệu và sản phẩm. Theo các cụ cao niên có nhiều thâm niên trong nghề quỳ vàng bạc thì khâu làm giấy quỳ giống và giấy vỡ là khâu quan trọng nhất có tính quyết định đến chất lượng của sản phẩm.
Trong những năm gần đây nghề quỳ vàng bạc truyền thống phát triển mạnh đã tạo nên ưu thế cho Kiêu Kỵ. Nhờ có nghề quỳ vàng bạc, làng đã thu hút được nhiều lao động ở mọi lứa tuổi khác nhau, tăng thêm thu nhập và cải thiện thêm đời sống của dân làng. Mặt khác nhiều người dân trong làng do biết quý trọng nghề quỳ vàng bạc của cha ông để lại nên đã cố gắng động viên con cháu học lấy nghề và kế tục lâu dài nghề quỳ vàng bạc cho muôn đời về sau. Đó là những tiền đề thuận lợi để nghề quỳ vàng bạc phát triển lâu dài.
Phải thừa nhận rằng nghề quỳ vàng bạc là một nghề truyền thống độc nhất vô nhị của nước ta, với nhiều công đoạn khá phức tạp, nên một người thợ dù tài giỏi đến đâu đi nữa cũng không thể làm hết các công việc được. Trên thực tế không có loại máy móc nào dù hiện đại đến đâu có thể thay thế được đôi bàn tay khéo léo của người thợ thủ công của làng quê Kiêu Kỵ trong việc làm quỳ. Để làm ra một sản phẩm quỳ vàng hay quỳ bạc với chất lượng cao thì phải có sự kết hợp nhịp nhàng của nhiều người thợ trong một dây chuyền sản xuất đồng bộ và khép kín.
Thực tế đã cho thấy, sản phẩm quỳ vàng và quỳ bạc do dân làng Kiêu Kỵ làm ra đã đáp ứng được yêu cầu của các nghệ nhân sơn thiếp vàng bạc và các nhà hoạ sĩ vẽ tranh sơn mài từ nhiều năm nay. Quỳ Kiêu Kỵ đã góp phần làm nên cái đẹp tiềm ẩn hay cái thần cho mỗi pho tượng hay cho mỗi bức tranh.
Thanh Phong tổng hợp
Xem thêm:
Putin: Nếu Mỹ muốn chiến thì Nga cũng phải theo, và tên lửa bắn vào…
HĐGSNN vừa công nhận đạt tiêu chuẩn chức danh giáo sư, phó giáo sư năm…
Ông Vương Đình Huệ có sai phạm trong phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; vi…
Ông Musk và ông Ramaswamy đã cùng chấp bút một bài xã luận đăng trên…
Quân đội Ukraine thông báo trong sáng Thứ Năm Nga đã tiến hành không kích…
Hai nước Việt Nam-Malaysia vừa nâng cấp quan hệ lên Đối tác Chiến lược toàn diện,…