Tượng đồng của John Harvard, người sáng lập Đại học Harvard, tại Đại học Harvard ở Boston, Massachusetts. (Shutterstock)
Khi nhắc đến Harvard, bạn nghĩ đến điều gì? Trí tuệ, tinh hoa, hay quyền lực? Đối với cá nhân, Harvard là sự khẳng định cao nhất cho nỗ lực. Đối với xã hội, đây là cái nôi của những người dẫn dắt thời đại. Giữa hoa tươi và tiếng vỗ tay, là một mạng lưới đan xen giữa danh tiếng, danh dự và lợi ích, đang giam hãm giáo dục trong đó.
Việc Donald Trump thách thức chính sách tuyển sinh của Harvard một lần nữa đưa ngôi trường này trở thành tâm điểm chú ý. Hôm nay, chúng ta hãy cùng nhìn lại lịch sử để tìm hiểu về vinh quang, tủi nhục và sự hưng thịnh, suy tàn của ngôi trường danh giá này.
Tháng Sáu ở Boston cuối cùng cũng tạm biệt cái lạnh của mùa đông, những tán lá xanh vẫy gọi một khoảng nắng ấm áp. Kỳ nghỉ hè đã đến, sông Charles vắng bóng sinh viên qua lại, trở nên đặc biệt yên tĩnh. Bước vào khuôn viên trường, điều bất ngờ là Harvard không hề lớn, không có những công trình kiến trúc tráng lệ như cung điện, những ngôi nhà gạch đỏ trông cổ kính và vững chãi. Giữa vô số trường đại học danh tiếng thế giới ở Mỹ, nơi đây có vẻ khiêm tốn, thậm chí có phần ít nổi bật. Vậy điều gì đã làm nên biểu tượng Harvard – biểu tượng của nền văn minh hiện đại phương Tây?
Thay vì nói vị thế thế giới của Hoa Kỳ đã tạo nên ảnh hưởng toàn cầu của Harvard, thì đúng hơn là Harvard đã định hình nền văn minh Mỹ. Được thành lập vào năm 1636, Harvard ra đời sớm hơn Hợp chủng quốc Hoa Kỳ 140 năm. Nơi đây ban đầu là nơi những người Thanh giáo (là một phong trào của đạo Tin Lành xuất hiện ở Anh – Puritanism) đào tạo các nhà truyền giáo và giáo sĩ, với lý tưởng xây dựng một “thiên đường đạo đức” trên lục địa mới này. Mục tiêu giáo dục khi ấy rất đơn giản – nâng cao tỷ lệ biết chữ, để mọi người đều có thể đọc Kinh Thánh, và trong lòng mỗi người đều có khát vọng hướng tới đạo đức cao cả.
Vào cuối thế kỷ 18, ngọn lửa đấu tranh cho tự do và độc lập bùng cháy trên đất Bắc Mỹ. Nhiều chính trị gia ưu tú đời đầu của Hoa Kỳ đều xuất thân từ Học viện Harvard thời bấy giờ. John Adams, một trong những người soạn thảo Tuyên ngôn Độc lập, tốt nghiệp tại đây và sau này trở thành Tổng thống thứ hai của Hoa Kỳ. Với các giá trị đạo đức truyền thống tôn giáo làm luật tối cao, Hiến pháp Hoa Kỳ có thể thấy nhiều dấu ấn của quyền con người được ban bởi Chúa, ví dụ như “mọi người đều bình đẳng trước Chúa” và “khi bản chất con người sa đọa cần phải được kiềm chế” đã phát triển thành “Hiến pháp tối thượng” và “mọi người đều bình đẳng”. Có thể nói, giáo dục thời đó rất thuần túy, là một thời đại mà xã hội được xây dựng dựa trên niềm tin và đạo đức.
Cha của tỷ phú Elon Musk cảnh báo con trai sẽ thua trong cuộc đối…
Trợ lý Tổng thống Nga cho hay rằng nhóm đàm phán của Ukraine vì một…
Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn vừa ký thông qua Nghị quyết số 78…
Nhiều hộ kinh doanh đang tính toán lại chi phí đầu vào để điều chỉnh…
"Hố tử thần" mới có miệng hố dài khoảng hơn 1m, rộng 60cm, sâu khoảng…
Không phải loại đường nào cũng gây hại cho cơ thể. Một số loại, khi…