Một cuộc khảo sát được thực hiện trên 141 quốc gia cho thấy, có hơn 52% số người “dự đoán về tác hại nghiêm trọng từ nước uống trong 2 năm tới”, theo một nghiên cứu gần đây.
Nghiên cứu, mới được công bố trên Nature Communications (Tập san Giao tiếp Tự nhiên), đã phân tích dữ liệu của hơn 148.000 người lớn trong Cuộc thăm dò rủi ro thế giới năm 2019 của Tổ chức từ thiện toàn cầu Lloyd’s Register Foundation.
Các nhà nghiên cứu của Đại học Northwestern và UNC phát hiện ra rằng tại Hoa Kỳ, mặc dù có hơn 97% dân số được tiếp cận với nước sạch, nhưng chỉ có khoảng 40% người dân dự đoán về tác hại từ nước.
Tỷ lệ thấp nhất được báo cáo ở Singapore (0,9%) và cao nhất được báo cáo ở Zambia (54,3%).
Tác giả chính của nghiên cứu, ông Joshua D. Miller, một nghiên cứu sinh tiến sĩ tại Đại học North Carolina, cho biết với tờ The Epoch Times: Các phát hiện cho thấy rằng việc tiếp cận với nước sạch không phải là nâng cấp cơ sở hạ tầng nước, “mà là về nhận thức của công chúng về sự an toàn và lòng tin.”
Ông cho biết rằng nhận thức của mọi người có thể là không sai.
Một câu hỏi quan trọng được đặt ra với phát hiện này là, liệu nhận thức của mọi người có đúng không, ông Miller nói.
Ông dẫn chứng về một báo cáo gần đây của các nhà nghiên cứu Thụy Sĩ được công bố trên Science (Tập san Khoa học), ước tính rằng 4,4 tỷ người trên toàn cầu không được tiếp cận với nước sạch.
“Ban đầu chúng tôi nghĩ rằng con số đó có thể vào khoảng 2,2 tỷ, nhưng khi mọi người bắt đầu tổng hợp thêm dữ liệu và cố gắng đưa ra một con số ước tính mới về chất lượng nước … thì giờ đây con số đó đã tăng gấp đôi … Vì vậy, điều đó cho thấy rằng, nhận thức của mọi người đã đi trước chúng ta rất nhiều trong lĩnh vực chất lượng nước,” ông Miller cho biết.
“Mọi người có cảm giác tốt thông qua vị giác, khứu giác và kinh nghiệm lịch sử về việc trải nghiệm được tác hại từ nước để biết về việc liệu uống nước có an toàn hay không.”
Mặt khác, ông Miller nhấn mạnh rằng nhận thức của mọi người sẽ thúc đẩy các hành vi định hình các quyết định và kết quả về sức khỏe của họ.
“Khi chúng ta không tin tưởng vào chất lượng của nước máy, chúng ta mua nước đóng chai – loại nước cực kỳ đắt đỏ và gây hại cho môi trường; uống soda hoặc các loại đồ uống có đường khác – gây hại cho răng và vòng eo; tiêu thụ thực phẩm chế biến sẵn hoặc đến nhà hàng để tránh nấu ăn tại nhà – loại thực phẩm kém lành mạnh và tốn kém hơn,” Sera L. Young, tác giả chính của nghiên cứu, cho biết trong một thông cáo báo chí.
“Những cá nhân tự báo cáo về việc bản thân đã tiếp xúc với nguồn nước không an toàn sẽ bị căng thẳng về mặt tâm lý nhiều hơn … và có nguy cơ mắc chứng trầm cảm cao hơn những người không tiếp xúc,” các tác giả viết trong nghiên cứu của họ.
Nghiên cứu của Nature Communications (Tập san Giao tiếp Tự nhiên) cho thấy, nhận thức của công chúng về tham nhũng là yếu tố dự báo mạnh nhất về dự đoán rủi ro từ nguồn nước uống.
Một số yếu tố có thể giúp giải thích được tại sao các quốc gia khác nhau có tỷ lệ dự đoán về tác hại khác nhau.
Nghiên cứu cho biết, trong số đó, nhận thức của công chúng về tham nhũng là yếu tố lớn nhất, chiếm hơn 50% sự khác biệt giữa các quốc gia.
Ngoài ra, ông Miller cũng cho biết, các quốc gia tham nhũng cũng có xu hướng có ít nước sạch hơn, đầu tư ít hơn vào cộng đồng và cơ sở hạ tầng của họ.
Tuy nhiên, quan điểm của người dân về chính phủ không thể giải thích cho tất cả những khác biệt đó.
Các tác giả cũng phát hiện ra rằng, 2/3 số cá nhân dự đoán tác hại từ nước trong 2 năm tới cho biết, chính phủ của họ đã làm “tốt” trong việc đảm bảo nước uống an toàn.
Các yếu tố chính khác có thể làm tăng tỷ lệ dự đoán của quốc gia về tác hại từ nước bao gồm tỷ lệ người dân bị tác hại do nước uống cao hoặc tỷ lệ tử vong liên quan đến nước uống cao.
Ở cấp độ cá nhân, những người là phụ nữ, có trình độ học vấn và có những khó khăn về tài chính có xu hướng hay dự đoán về tác hại của nước uống.
“Tôi nghĩ mọi người ngày càng nhận thức được các vấn đề về nước và các mối đe dọa từ môi trường khác,” ông Miller cho biết.
“Đây chỉ là một báo cáo sau một loạt các báo cáo về các tình hình tồi tệ mà chúng ta đang phải đối mặt,” ông Miller liệt kê danh sách gồm tình trạng lũ lụt, hạn hán, nước thải, ô nhiễm và các hiện tượng thời tiết khắc nghiệt làm gia tăng làm ô nhiễm và phá hủy cơ sở hạ tầng nước.
Mặc dù đã xử lý và làm sạch nước trên diện rộng để loại bỏ các chất gây ô nhiễm, nhưng một số chất gây hại vẫn còn sót lại.
Đồng thời, các nhà nghiên cứu đang tìm thấy các hóa chất và chất mới trong nguồn cung cấp nước có thể gây nguy cơ cho sức khỏe, đòi hỏi cần có các nghiên cứu thêm và thiết lập các quy định mới.
“Tôi không muốn nói xấu các nhà cung cấp dịch vụ tiện ích tại Hoa Kỳ, điều đó thực sự khó khăn,” Miller cho biết. “Mỗi khi chúng tôi áp đặt một hạn chế hoặc ngưỡng mới mà họ phải đạt được đối với chất lượng nước, điều đó có nghĩa là chi phí cao hơn và họ phải yêu cầu người tiêu dùng trả nhiều tiền hơn hoặc họ sẽ không đáp ứng được các hướng dẫn. Và tôi nghĩ đó là sự căng thẳng liên tục mà chính phủ phải đối mặt khi thiết lập các quy định mới và đôi khi việc áp dụng các quy định này thực sự chậm chạp.”
Mặc dù nghiên cứu có thể tìm thấy các chất gây ô nhiễm có khả năng gây hại, nhưng chính phủ rất khó đưa ra các quy định mới do những tác động về chi phí.
Ông Miller cho biết: “Chúng ta thực sự phải tính đến giá trị của nước và số tiền chúng ta sẵn sàng trả cho nó. Có một danh sách ngày càng dài các chất gây ô nhiễm mà chúng ta cần quan tâm và có nhiều mức độ bằng chứng khác nhau về mức độ gây hại của chúng – ở các ngưỡng khác nhau. Vì vậy, tôi nghĩ rằng cần phải có nhiều thông điệp về y tế công cộng và những thông điệp này phải thực sự rõ ràng về những gì có trong nước của chúng ta và liệu chúng có gây hại hay không.”
Chất dinh dưỡng quan trọng nhất mà bạn cần tiêu thụ nhiều lần mỗi ngày là gì? Nếu bạn đoán là protein, vitamin C hoặc canxi, bạn đã nhầm. Đó là nước.
Mặc dù nước không phải là vitamin hay khoáng chất, nhưng đó là một chất dinh dưỡng quan trọng đối với sự sống của con người. Hãy xem xét điều này: Bạn có thể tồn tại trong nhiều tuần mà không có thức ăn, nhưng lại chỉ sống được trong khoảng 3 ngày nếu không có nước.
Nước rất cần thiết vì cơ thể cần nhiều nước hơn số lượng cơ thể có thể tự sản xuất. Đó là bởi vì cơ thể thường mất rất nhiều nước mỗi ngày qua quá trình bay hơi, đào thải, hô hấp và mồ hôi.
Cân bằng thể dịch: Nước giúp duy trì sự cân bằng của chất lỏng trong cơ thể. Cơ thể được tạo thành từ khoảng 60% là nước, và khi trở nên quá bão hòa, cơ thể sẽ mất nước qua đường tiểu tiện. Nếu cơ thể bị mất nước, não sẽ báo hiệu cho cơ thể nên uống nhiều hơn bằng cách báo hiệu cơn khát.
Nhiệt độ cơ thể: Nước giúp điều chỉnh nhiệt độ cơ thể thông qua sự bay hơi của mồ hôi.
Kiểm soát lượng calo: Hàm lượng nước trong thức ăn thực sự giúp cơ thể kiểm soát được lượng calo. Thực phẩm chứa nhiều nước, chẳng hạn như trái cây, rau và súp sẽ giúp no lâu hơn thực phẩm có hàm lượng nước thấp và ăn thực phẩm chứa nhiều nước giúp báo hiệu cơ thể nên ngừng ăn.
Tiêu hóa: Nước trợ giúp sự tiêu hóa và giữ cho ruột hoạt động tốt.
Dịch khớp: Trong khớp, nước dưới dạng dịch khớp đóng vai trò như một lớp đệm giảm sốc và làm chậm quá trình hao mòn.
Huyết áp: Nước là thành phần cơ bản giúp kiểm soát huyết áp.
Dịch não: Não chứa nhiều nước hơn cơ thể, bao gồm 73% là nước. Khi cơ thể bị mất nước sẽ gây ảnh hưởng đến tâm trạng, giảm chức năng nhận thức, ảnh hưởng đến trí nhớ và khiến cơ thể nhạy cảm hơn với cơn đau.
Oxy: Nước giúp tăng sức đề kháng bằng cách thải độc tố ra khỏi cơ thể và cung cấp oxy cho tất cả các tế bào trong cơ thể.
Sức khỏe làn da: Muốn có làn da khỏe mạnh hơn? Nên uống nước. Làn da đủ nước sẽ căng mọng và sáng mịn, trong khi tình trạng mất nước khiến da trông khô và nhăn nheo. Da khô cũng làm chậm quá trình lành vết thương.
Cân bằng điện giải: Nước điều chỉnh sự cân bằng của các chất điện giải trong cơ thể, bao gồm natri, kali, clorua và bicarbonat. Các chất điện giải này giúp điều chỉnh chức năng của dây thần kinh và cơ bắp, giúp duy trì sự cân bằng axit (pH) trong cơ thể.
Phòng đau nhức: Uống đủ nước sẽ ngăn ngừa đau đầu, co cứng cơ, bong gân và căng cơ, vì các mô mất nước dễ bị thương hơn.
Nên uống bao nhiêu nước mỗi ngày? Các chuyên gia khuyên nên uống từ 4 đến 8 cốc (0,24 lít mỗi cốc)/ngày, tùy thuộc vào loại thuốc mà bạn đang dùng, hoạt động thể chất, tuổi tác và sức khỏe tổng thể. Mặc dù cuối cùng cũng là não sẽ cho bạn biết khi nào cơ thể bị mất nước, nhưng đừng phụ thuộc vào cơn khát làm thước đo cho thời điểm uống nước.
Trên thực tế, tín hiệu khát sẽ giảm dần theo tuổi tác, vì vậy, khi bạn già đi, bạn cần đảm bảo uống đủ nước, bất kể là có khát hay không.
Đội hình Phalanx gắn liền với những cuộc chinh phục của Alexander Đại Đế.
Phát biểu của bà Zakharova vào thứ Năm (21/11) mô tả Estonia và các quốc…
Xinh đẹp là một loại phúc báo, nhưng nhan sắc là yếu tố bên ngoài…
Nhà Hậu Trần giằng co cản bước quân Minh nam tiến sau khi Trương Phụ…
Ba vị đồ đệ trong Tây Du Ký có pháp danh lần lượt là Tôn…
Các sợi lông lỏng lẻo trên bề mặt vải có thể dễ dàng được loại…