(Ảnh: Jean-Pierre Dalbéra, Wikipedia, CC BY 2.0)
“Tính cương nghị, thẳng thắn, sửa mình trong sạch, bền giữ tiết tháo, không cầu lợi lộc. Ông ở nhà đọc sách, học vấn tinh thông, nổi tiếng gần xa, học trò đầy cửa, thường có kẻ đỗ đại khoa”. Đó là lời nhận xét về Chu Văn An được ghi chép trọng “Đại Việt Sử ký Toàn thư”. Ông là một người tài năng nhưng lúc đầu đã không chọn làm quan, mà chọn mở trường dạy học trong thời điểm trường lớp khan hiếm.
Chu văn An tên thật là Chu An, sinh năm 1292 ở thôn Văn, xã Quang Liệt, huyện Thanh Đàm (nay là xã Thanh Liệt, huyện Thanh Trì, Hà Nội). Ông là một trong những người đỗ đạt nhỏ tuổi nhất trong lịch sử, mới 14 tuổi đã thi đỗ Thái học sinh (tương đương tiến sĩ).
Thời nhà Trần, trường học rất hiếm, Triều đình chỉ mở một trường duy nhất là Quốc tử giám nằm ở Kinh đô.
Có một loại trường học khác thiên về Phật giáo. Nhà Trần có nguồn gốc từ Thiên Trường (Nam Định), nên ở đây có “Tư Thiện đường”, “Toát Trai đường” vốn dành cho tôn thất nhà Trần, đồng thời cũng dạy những kinh điển Phật Pháp. Thời nhà Trần Phật giáo rất phát triển nên có các trường Yên Tử ở Quảng Ninh, Hương Sơn ở Hà Tây dành riêng cho nhà chùa.
Về phần làng quê, các thầy giáo làng còn gọi là thầy đồ cũng ít, làng nào may mắn có được thầy đồ thì trẻ em được học chữ, làng nào không có thầy thì thất học.
Các thầy đồ chữ nghĩa cũng giới hạn, học hết chữ thầy thì trò phải tự học, mà thời đó sách vở cũng rất thiếu thốn. Điển hình là Thám hoa Đặng Ma La vốn thông minh, học chẳng mấy chốc đã hết chữ thầy trong làng nên phải sang làng khác, nhưng chẳng mấy chốc đã hết chữ thầy, bấy giờ chỉ còn cách tự học, lại thiếu sách vở. Đặng Ma La nhờ cơ duyên kỳ lạ mà mua được sách hay, những người khác không được may mắn như thế.
Chính vì trường lớp quá ít khiến nhiều người thất học, nên Chu Văn An dù đỗ Thái học sinh nhưng quyết định không ra làm quan mà mở trường dạy học ở quê nhà Thanh Liệt, đặt tên là trường Huỳnh Cung. Trường không chỉ có lớp mà còn có cả thư viện phục vụ học tập. Trường lớp khan hiếm nên học trò đến học đông, chẳng ấy chốc đã có 3.000 người học chật kín cả trường.
Chu Văn An truyền đạt kinh điển Nho gia, chú trọng “giáo kính, giáo trung, giáo văn” nghĩa là “dạy cung kính, trung hậu, văn nhã”. Trường Huỳnh Cung trở thành trường lớn cho tầng lớp dân dã muốn có chữ Thánh Hiền.
Khoa thi năm 1314, trường Huỳnh Cung có 2 sĩ tử đỗ Thái học sinh, gây được tiếng vang lớn. Vua Trần Minh Tông nghe danh trường liền mời Chu Văn An đến làm Tư nghiệp Quốc Tử Giám (tức hiệu trưởng trường Quốc Tử Giám), trông coi việc học của cả nước. Vua cũng tin tưởng giao cho ông dạy dỗ Thái tử Trần Vượng. Vì thế mà Chu Văn An không thể chuyển tâm vào việc giáo dục vì cần nhiều thời gian dạy dỗ cho Thái tử.
Năm 1329, vua Trần Minh Tông nhường ngôi cho Trần Vượng (Hiến Tông) rồi lên làm Thượng Hoàng. Lúc này Chu Văn An mới có thêm thời gian lo cho trường Quốc Tử Giám và công cuộc giáo dục. Ông cho mở mang trường, viết các giáo trình dạy học, mở rộng thành phần sĩ tử theo học.
Vua Hiến Tông ở ngôi chỉ được 2 năm thì mất, Thượng Hoàng Minh Tông đưa Trần Hạo lên ngôi, hiệu là Dụ Tông.
Nhà Trần từ thời vua Trần Thái Tông đến Trần Anh Tông đều là những người tu luyện, dùng Phật Pháp giáo hóa dân chúng khiến Xã Tắc ổn định, Giang Sơn hùng mạnh mà 3 lần đánh bại đại quân Nguyên Mông. Đến thời vua Minh Tông dù không tu luyện nhưng vẫn dựa vào Phật Pháp để trị quốc.
Đến thời vua Dụ Tông thì khác các đời vua trước, ông không có được niềm tin tín ngưỡng, không lo giữ gìn đạo đức tinh thần xã hội; bản thân ham mê tửu sắc, xây cung điện, đánh sưu cao thuế nặng khiến dân chúng ca thán.
Bên ngoài giặc cướp khắp nơi hoành hoành ngang ngược, bên trong thì gian thần liên kết hoành hành, chèn ép dân chúng. Chu Văn An phẫn nộ viết “thất trảm sớ” gửi lên Vua yêu cầu chém 7 kẻ gian thần nhưng vua Dụ Tông không nghe.
Nhận thấy nhà Trần dung túng gian thần và ngày cùng suy yếu, Chu Văn An từ quan về vùng đất Chí Linh (Hải Dương) lấy hiệu là Tiều Ẩn (người hái củi ở ẩn) mở trường tiếp tục dạy học.
Từ khi có Chu Văn An về đây, Chí Linh trở thành vùng đất học có tiếng. Ngoài việc dạy học ông còn nghiên cứu thêm về cây thuốc giúp dân chữa bệnh.
Học trò của ông đỗ đạt rất nhiều, thỉnh thoảng vẫn đến thăm ông, nhờ đó mà ông biết được tình hình Triều chính, răn dạy học trò. Trong số học trò của ông nổi tiếng nhất là Phạm Sư Mạnh và Lê Quát làm quan đầu triều. Cả hai dù đều là các bậc hiền tài nhưng vì nhà Trần đã mạt nên không cống hiến được nhiều cho Giang Sơn Xã Tắc.
Năm 1370, Chu Văn An mất, Triều đình đưa ông vào thờ ở Văn Miếu, xem ông như một người thầy lớn. Trong thời điểm mà trường lớp khan hiếm, ông dù đỗ đạt nhưng không chọn làm quan mà mở trường dạy chữ Thánh Hiền, dành hết cả cuộc đời vì sự nghiệp giáo dục.
Trần Hưng
Xem thêm:
Mời xem video:
Tổng thống Volodymyr Zelensky đã bác lời kêu gọi Ukraine đồng ý ngừng bắn ngay…
Tỷ phú công nghệ Elon Musk đã lên tiếng chỉ trích tổng thống Ukraine Vladimir…
Nếu ngôi nhà phủ một lớp bụi, không chỉ mất thẩm mỹ mà còn có…
Sau hợp nhất, Bộ Khoa học và Công nghệ có 25 đầu mối, trong đó…
Công trình đường dây 500 kV Lào Cai - Vĩnh Yên sẽ được thi công…
Zelensky lại nói ông “sẵn sàng” ký thỏa thuận khai khoáng. Điều này khiến giới…