(Ảnh: Jean-Pierre Dalbéra, Wikipedia, CC BY 2.0)
Trong dòng chảy văn học trung đại, thơ của Chu Văn An tuy chỉ lưu lại có 12 bài, nhưng mang giá trị đặc biệt. Đó là tiếng nói của một bậc chính nhân quân tử thời mạt Trần – một người thẳng thắn, thanh liêm, sẵn sàng từ bỏ quan lộ để giữ trọn khí tiết. Thơ ông tưởng như thanh nhã những lại ẩn chứa nỗi đau đáu đối với thời cuộc.
Chu Văn An (1292-1370), hiệu Tiều Ẩn, là nhà giáo lớn, được xưng tụng là “sư biểu” – bậc thầy của muôn đời. Ông nổi tiếng thanh liêm, cương trực, từng dâng Thất trảm sớ yêu cầu chém 7 nịnh thần, nhưng không được chấp thuận nên lui về Côn Sơn dạy học. Trong cảnh ẩn cư, Chu Văn An làm thơ. Thơ ông hàm súc, toát lên tâm hồn gắn bó với thiên nhiên và nỗi niềm ưu thời mẫn thế.
Tịch mịch sơn gia trấn nhật nhàn,
Trúc phi tà ủng hộ khinh hàn.
Bích mê thảo sắc thiên như tuý,
Hồng thấp hoa tiêu lộ vị can.
Thân dữ cô vân trường luyến tụ,
Tâm đồng cổ tỉnh bất sinh lan.
Bách huân bán lãnh trà yên yết,
Khê điểu nhất thanh xuân mộng tàn.
Dịch nghĩa:
Nhà trên núi vắng vẻ, suốt ngày thảnh thơi,
Cánh cửa phênh che nghiêng ngăn cái rét nhẹ.
Màu biếc ác cả sắc mây, trời như say,
Ánh hồng thấm nhành hoa sương sớm chưa khô.
Thân ta cùng đám mây cô đơn mãi mãi lưu luyến hốc núi,
Lòng giống như mặt giếng cổ, chẳng hề gợn sóng.
Mùi khói thông sắp hết, khói trà đã tắt,
Một tiếng chim bên suối làm tỉnh mộng xuân.
Bài thơ mở ra bức tranh mùa xuân nơi sơn cước thanh tĩnh, trầm mặc. Hình ảnh thiên nhiên “bích mê thảo sắc”, “hồng thấp hoa tiêu” vừa tươi tắn vừa phảng phất nỗi u tịch. Giữa cảnh ấy, nhà thơ ví tâm mình lặng phẳng như giếng xưa, một cách tự khẳng định tâm hồn thanh sạch, không vướng bụi trần. Nhưng tiếng chim bất ngờ cất lên khiến “xuân mộng tàn”, như lời nhắc nhở về sự tỉnh thức trong thời cuộc nhiễu nhương. Thiên nhiên là chốn nương náu, cũng lại là tấm gương phản chiếu tâm trạng ẩn sĩ dù “tự nhận” không gợn sóng, nhưng kỳ thực còn vương nỗi niềm thời cuộc, nên mới giật mình trước một tiếng chim.
Nỗi niềm ấy là gì? Hãy cùng đọc bài “Miết trì”…
Thuỷ nguyệt kiều biên lộng tịch huy,
Hà hoa hà diệp tịnh tương y.
Ngư du cổ chiểu long hà tại?
Vân mãn không sơn hạc bất quy.
Lão quế tuỳ phong hương thạch lộ,
Nộn đài trước thuỷ một tùng phi.
Thốn tâm thù vị như hôi thổ,
Văn thuyết tiên hoàng lệ ám huy.
Dịch nghĩa
Trăng nước bên cầu đùa giỡn bóng chiều hôm,
Hoa sen, lá sen, yên lặng tựa nhau.
Cá bơi ao cổ, rồng ở chốn nào?
Mây đầy núi vắng, hạc chẳng thấy về!
Mùi quế già bay theo gió làm thơm ngát con đường đá,
Rêu non đẫm nước che lấp cánh cửa thông.
Tấc lòng này vẫn chưa nguội lạnh như tro đất,
Nghe nói đến Tiên hoàng luống gạt thầm giọt lệ.
“Miết trì” không chỉ là bức thủy mặc Côn Sơn mà còn là lời tự bạch. Ao cổ vắng lặng, sen trầm mặc, mây núi hoang vu – cảnh vật như phủ đầy nỗi cô tịch. Nhưng trong lòng thi nhân không hề nguội lạnh. Trước cảnh thiên nhiên, Chu Văn An vẫn không nguôi thương nhớ vị minh quân đã mất, để rồi “lệ ám huy”. Cảnh và tình hòa quyện, biến bài thơ thành bản hoài ca về lòng trung nghĩa: sống ẩn dật mà lòng vẫn để tâm tới vận mệnh đất nước.
Và dù thi sĩ tìm về thiên nhiên, hay tìm về tín ngưỡng, thì trong lòng vẫn không thể dứt được lo toan…
Nhàn thân nam bắc phiến vân khinh,
Bán chẩm thanh phong thế ngoại tình.
Phật giới thanh u, trần giới viễn,
Đình tiền phún huyết nhất oanh minh.
Dịch nghĩa
Thân nhàn như đám mây nhẹ bay khắp nam bắc,
Gió mát thổi bên gối, tâm tình để ngoài cuộc đời.
Cõi Phật thanh u, cõi trần xa vời,
Trước sân, một con oanh kêu như muốn trào máu.
Ba câu đầu vẽ nên đời sống nhàn tĩnh, thoát tục: con người như mây bay, gió thổi, tâm hồn đặt ngoài thế sự. Nhưng đến câu cuối, hình ảnh “oanh kêu” xuất hiện đột ngột, dữ dội, tạo nên sự tương phản mạnh mẽ. Đây là ẩn dụ cho tiếng lòng bi thương trước thời cuộc. Chữ “đình” còn gợi liên tưởng đến “triều đình”, khiến tiếng oanh như vọng lại nỗi đau của chính Chu Văn An khi dâng sớ can gián mà không được nghe theo. Bề ngoài, ông sống nhàn nhã nơi thôn dã nhưng trong sâu thẳm vẫn là tâm trạng canh cánh vì vận mệnh quốc gia.
*
Cả ba bài thơ cho thấy phong cách độc đáo của Chu Văn An. Ông hướng về thiên nhiên để giữ lòng thanh khiết, nhưng không bao giờ rũ bỏ nỗi lo toan cho thế cuộc. Thơ Chu Văn An vì thế vừa thanh thoát, vừa bi tráng; vừa an nhiên, vừa day dứt. Đó chính là tiếng thơ của một nhân cách lớn trong thời mạt Trần.
Ninh Sơn biên tập
Xem thêm:
Mời xem video:
Máy bay chở Chủ tịch EC von der Leyen đã bị gây nhiễu hệ thống…
Tổng thống Mỹ Donald Trump cảnh báo rằng nước Mỹ sẽ "trở thành quốc gia…
Bà Trần Việt Nga, Cục trưởng Cục An toàn thực phẩm (Bộ Y tế), bị…
Từ ngày 27/7 đến 26/8, một loạt các vụ đe dọa bạo lực, mạo danh…
Sở Di trú và Nhập tịch Mỹ (USCIS) vào thứ Sáu (29/8) đã công bố…
Biến động tỷ giá từ đầu năm bắt đầu tác động đến hoạt động sản…