Văn Hóa

Y học cổ đại và y học hiện đại

Mục đích của việc chữa bệnh chính là giúp con người tránh xa thống khổ bệnh tật, không còn bị bệnh nữa. Nhưng người xưa có câu rằng, ăn ngũ cốc tạp lương thì làm sao có thể không sinh bệnh được? Nghĩa là sinh bệnh là chuyện thường tình, không sinh bệnh mới là kỳ tích. Muốn để con người không sinh bệnh tật, thì từ y học cổ đại có thể sẽ có nhiều hy vọng tìm kiếm câu được trả lời hơn là các phương thức ngày càng tự động hóa, ngày càng cơ giới hóa hiện nay.

Những nút thắt của y học hiện đại là gì? Đó là hiện nay có thể dùng nhiều cách để kiểm soát được huyết áp, lượng đường trong máu nhưng thậm chí ngay cả bệnh cảm cúm cũng không thể kiểm soát được.

Có những bệnh là gần như không cách nào chữa khỏi, như bệnh AIDS chẳng hạn, phương pháp tiên tiến nhất cũng không phải do con người nghĩ ra, mà phải dùng tế bào gốc của người vốn có sẵn đột biến kháng virus HIV.

Nếu phát hiện khối u thì phải phẫu thuật, nếu ung thư thì ngoài phẫu thuật còn phải dùng thuốc, xạ trị. Trường hợp khối u lành tính tiêu mất thì cũng là do tự cơ thể con người thực hiện.

Biến đổi bệnh lý của bệnh thần kinh, ngoại trừ tổn thương cơ học ra thì người ta không biết khi nào và tại sao bệnh thần kinh lại xảy ra, y học phân tử hay sinh vật học phân tử cũng không thể giải quyết các bệnh nội tiết và bệnh tâm thần.

Đến cuối cùng, hiện tượng nào đã xảy ra? Y học hiện đại nhấn mạnh phải phát hiện bệnh sớm. Phần điều trị bệnh thậm chí còn không quan trọng bằng việc kiểm tra ra bệnh lý. Điều này quả thật ngược đời. Vậy là khi các thiết bị ngày càng tiên tiến, chính xác và y học hiện đại ngày càng phát triển thì ngày càng có nhiều bệnh nhân!

Nhưng y học cổ đại tin rằng con người mắc bệnh là vì lý do nghiệp lực, là vì sự bại hoại về đạo đức và hành vi đi chệch khỏi các chuẩn mực đạo đức. Trong “Bị cấp thiên kim yếu phương” của Tôn Tư Mạc viết:

“Sở dĩ Thánh nhân chế ra thuốc là để cứu người có đức hạnh; thế nên kẻ ngu muội ôm bệnh quanh năm bởi vì chẳng tu lấy một đức hạnh nào. Cuối cùng vẫn không có lòng hối cải.”

Điều này rõ ràng chỉ ra rằng người mà các thầy thuốc cổ đại muốn cứu là những người có thể sửa đổi lỗi lầm. Họ do có hành vi sai trái mà mắc bệnh. Tuy là như thế, con người rất cố chấp trong khuôn khổ nhận thức của bản thân, cho dù ốm đau quanh năm họ vẫn không chịu thay đổi những tư tưởng và quan niệm sai trái để nâng cao đạo đức của mình.

Trong cuốn sách “Hoàng Đế Nội Kinh – Thang dịch giao lễ luận” nói rằng:

“Các bậc Thánh nhân đời xưa làm ra thang dịch giao lễ (thuốc sắc và rượu thuốc), là để phòng bị. Cho nên người thời thượng cổ làm thang dịch mà không mấy khi dùng đến. Đến thời trung cổ về sau, con người vì đạo đức suy thoái nên đôi khi bị tà khí xâm nhập và họ bị bệnh, khi đó dùng tới thang dịch giao lễ thì rất là công hiệu.”

Khi suy nghĩ và hành vi của con người lệch xa đạo đức, thì tà khí bắt đầu xâm nhập vào và sẽ mắc bệnh.

Những căn bệnh hiện đại cũng rất khó chữa, tại sao lại khó chữa đến thế? “Nội Kinh – Thang dịch giao lễ luận” đã nói rằng đạo đức suy đồi là nguyên nhân sinh ra bệnh tật. Nói thẳng ra, y học cổ đại nhắm vào gốc bệnh, còn y học hiện đại nhắm vào biểu hiện bề mặt của bệnh.

Hệ thống chữa bệnh cận đại chính là bệnh viện nào có trang thiết bị tiên tiến hơn, có bác sĩ thành thạo các thủ thật, thành thạo vận dụng trang thiết bị, thì đó là bệnh viện cao cấp hơn và tốt hơn.

Lúc đầu vốn không có bệnh gì, vì quảng cáo nói khi người ta có bệnh thì nên phát hiện và điều trị sớm cho nên luôn đến bệnh viện để kiểm tra thường xuyên. Nếu kết quả kiểm tra là có bệnh, thì cũng không truy tìm tận gốc căn nguyên của bệnh. Càng kiểm tra càng sợ hãi, nhất là đối với những “căn bệnh hiện đại” chưa có loại thuốc nào được tạo ra để chữa trị.

Ngày nay, nếu kết quả kiểm tra cho thấy không bị bệnh, nhưng bản thân người đi khám cảm thấy khó chịu trong người, thì họ sẽ nói rằng: “Bệnh viện này không tốt, chưa đủ trang thiết bị tiên tiến nên không phát hiện ra bệnh”. Hình như phải tìm ra bằng được bệnh thì mới tính là bệnh viện tốt, bác sĩ giỏi, chưa tìm ra thì ngay cả bác sĩ cũng không chịu buông tay. Khi tìm ra được bệnh rồi, nhưng lại không có thuốc để chữa trị thì khóc kêu lên rằng đó là bệnh nan y.

Các bệnh nhân thời cổ đại không có thiết bị khám bệnh tiên tiến như vậy thì làm sao? Họ tìm thầy thuốc bắt mạch, thăm khám, hỏi han và kê đơn. Nếu hỏi đó là bệnh gì, thì người bệnh nghe cũng không hiểu, nào là “huyết phong”, “vị hỏa”, “gan dương cang”, “âm hư hỏa nhiệt”...

Y học cổ đại, thầy thuốc nhìn sắc mặt, nghe giọng nói, hỏi một số vấn đề mấu chốt như ra mồ hôi, đau đầu, đau nhức cơ thể, khô miệng, đắng miệng, khi nào xảy ra, xảy ra ở chỗ nào… để phân biệt ra tình trạng bệnh hư thực hàn nhiệt.

Sau đó người thầy thuốc bắt mạch rồi tìm hiểu về các tạng phủ và kinh lạc. Y học cổ đại xác định được âm dương, hư thực, hàn nhiệt sinh ra bệnh tật, lại xác định được bệnh đó thuộc về tạng phủ nào, kinh lạc nào, rồi dựa theo lý mà chẩn đoán ra bệnh, lập đơn thuốc và kê các vị thuốc để chữa trị. Uống thuốc thảo dược bốc theo đơn, uống vào có thể có phản ứng như đổ mồ hôi, tiêu chảy… nếu đúng thuốc thì bệnh sẽ khỏi.

Thầy thuốc cũng có thể sử dụng châm cứu, chỉ cần phân biệt được kinh lạc của bệnh, thì có thể dựa vào Ngũ hành tương sinh tương khắc và tìm ra vị trí để châm cứu.

Các loại thiết bị hiện đại như máy chụp cắt lớp (CT), chụp cộng hưởng từ (MRI), siêu âm… trông có vẻ rất hoành tráng đường hoàng, nhưng nếu dùng những thiết bị đó mà không phát hiện được bệnh thì không còn cách nào. Có bệnh kéo dài nhiều ngày mà không phát hiện ra bệnh gì.

Kỳ thực y học cổ đại thuộc về hệ thống học thuật của Đạo gia, chú trọng đến “thiên nhân hợp nhất”. Đạo gia tin rằng cơ thể con người là một tiểu vũ trụ. Hết thảy sự tuần hoàn vận chuyển khí huyết trong cơ thể con người đều có một đường thông liên hệ tương hỗ với đại vũ trụ, cho nên chỉ cần nhân khí được kết nối với thiên khí thì sẽ không bị bệnh. Do đó nguyên lý của y học cổ đại là mượn đặc tính vũ trụ tự nhiên để điều chỉnh khí của con người, dùng phương pháp châm cứu kết nối khí của con người với khí của vũ trụ, để loại bỏ cơn đau.

Vì vậy, một số loại thuốc trong cách sử dụng cần chú ý đến sự phối hợp thời gian, không gian, hoàn cảnh. “Thập Táo Thang” viết rằng nên uống lúc rạng sáng (sáng sớm, khi mặt trời lên ngang với tầm mắt, khoảng 5 giờ sáng). Các loại thuốc bổ thận như “Lục Vị Địa Hoàng Hoàn”“Bát Vị Địa Hoàng Hoàn” nên uống khi bụng đói. Trong “Cát căn thang”“Ma hoàng thang” thì ma hoàng hay cát căn phải sắc trước, loại bỏ lớp bọt phía trên, sau đó cho phần thuốc còn lại vào sắc.

Trong sự phát triển của y thuật châm cứu, có nhiều phương pháp điều trị khác nhau liên quan đến thời gian như “Tý ngọ lưu chú”“Linh quy bát pháp”. Các phương pháp châm cứu này đều có liên quan đến can chi của thời thần, kỳ thực chính là đặc tính âm dương của thời gian có quan hệ mật thiết với Ngũ hành.

Một số bệnh có thể chữa khỏi vào những ngày này nhưng không thể chữa khỏi vào những ngày khác, ví dụ có các quy định như sau:

“Giờ Giáp không chữa bệnh ở đầu, giờ Ất không chữa bệnh ở cổ họng, giờ Bính không chữa bệnh ở vai, giờ Đinh không chữa bệnh ở tim, ngày Mậu và Kỷ không chữa bệnh ở bụng, giờ Canh không chữa bệnh ở eo lưng, giờ Tân không chữa bệnh ở đầu gối, giờ Nhâm không chữa bệnh ở cẳng chân, giờ Quý không chữa bệnh ở bàn chân…”.

Y học cổ đại còn sử dụng thảo dược một cách rất tinh vi. Một số loại thuốc chọn dùng chất của chúng, trong khi có những loại thuốc chọn dùng khí của chúng. Một số loại thuốc không thể dùng cách đun sắc mà nhất định phải nghiền thành bột mịn rồi nuốt, chẳng hạn như cây “nguyên hồ sách”.

Loại thuốc bào chế cũng là một vấn đề quan trọng: cao, hoàn, đơn, tán, thang, dịch, giao, lễ – mỗi loại đều có tác dụng riêng. Có loại làm thành thuốc viên, có loại làm thành thủy hoàn, có loại làm thành diện quả hoàn… Thuốc viên tác dụng chậm, thuốc bột chữa bệnh cấp tính…

Hệ thống chữa bệnh hiện đại đã xuất hiện rất nhiều nút thắt không thể vượt qua. Mặc dù y học hiện đại có vận dụng hiểu biết được ghi chép lại từ y học cổ đại, nhưng so với hiệu quả được ghi chép trong sử sách thì vẫn kém xa.

Y học cổ đại có lý thuyết và phương pháp điều trị rất cao và đạt tới đỉnh điểm vì nó là một hệ thống hoàn chỉnh. Y học cổ đại không nói về vi khuẩn hay virus, mà sử dụng khái niệm phong, hỏa, nhiệt… để mô tả nguyên nhân gây bệnh. Ví dụ thời xưa gọi bệnh cúm truyền nhiễm theo nguyên nhân gây bệnh bằng các tên như “thương hàn”, “ôn bệnh”, “nhiệt bệnh”, v.v.. nhờ thế mà có thể chữa khỏi bệnh bằng nguyên lý của hệ thống.

Trong khi đó, nhờ sự tiến bộ của thiết bị kiểm tra, con người hiện đại dường như có thể truy tìm nguồn gốc của bệnh đến mức tế bào học, nhưng mỗi hình thức bệnh thì lại phải đi tìm phương pháp điều trị và phòng ngừa – tức là thiếu tính hệ thống hoàn chỉnh. Ví dụ, loại bệnh truyền nhiễm virus đường ruột enterovirus từng hoành hành ở Đài Loan từng được phát hiện nhưng không có cách nào chữa trị. Cùng một bệnh đó, y học cổ đại chỉ cần xác định là vị hỏa (hỏa ở dạ dày), thì thanh lý vị hỏa, nếu xác định là can hỏa (hỏa ở gan), thì thanh lọc can hỏa, nếu xác định cái gì hỏa, thì giải trừ hỏa đó, thuốc đến là bệnh ở khu vực đó khỏi. Vì sao y học hiện đại không có hiệu quả đối với loại virus trên? Vì trường hợp mắc bệnh này, vị trí phát bệnh luôn thay đổi thiên biến vạn hóa, có người bị tổn thương dây thần kinh thính giác khiến khi đi lại mất thăng bằng, cuối cùng là mất thính lực, có người bị tổn thương dây thần kinh mặt, có người bị mụn rộp ở mí mắt, có người bị mụn rộp ở tai, có người bị mụn rộp ở trong khoang miệng và trên ngón tay. Y học hiện đại đều xem là những vấn đề lớn, còn y học cổ đại thì nói nguyên nhân gây bệnh là do “hỏa”. Sau đó y học cổ đại dùng một ít thuốc để thanh lý hỏa ở các kinh lạc và tạng phủ khác nhau tương ứng với bệnh lý, mấy ngày là có thể trị khỏi bệnh.

Người làm khoa học hiện đại thường hy vọng đơn giản hóa những điều phức tạp và sử dụng những mô thức đơn giản để giải thích mọi hiện tượng vật lý, hóa học và sinh học vốn muôn hình vạn trạng. Khoa học phương Tây đã phát hiện ra rằng cơ sở của bất kỳ vật chất nào đều là các hạt rất nhỏ bé, là nguyên tử, nó là thành phần cơ bản của vật chất, và nguyên tử lại do các thành phần như electron, proton, neutron cấu thành, dùng mô hình này có thể giải thích nhiều hiện tượng vật chất, sau đó lại trên cơ sở này đã phát hiện ra hạt vi quan hơn và nhỏ hơn. Nhưng việc giải thích về các hiện tượng vật chất vẫn còn dừng lại ở ý tưởng, tuy có thể có những thành tựu trong các vấn đề mà vật lý và hóa học quan tâm, nhưng vẫn còn cách rất xa mới ứng dụng được vào việc trị bệnh trên cơ thể con người, thật khó để có thể tiến thêm một bước về phía trước. Nền tảng của khoa học cổ đại chính là âm dương và ngũ hành, có thể dùng để giải thích mặt trời, mặt trăng, các vì sao và dùng để giải thích vạn sự vạn vật trên thế gian, đều giảng rất thông suốt, và trong y học cũng như vậy. Mối quan hệ giữa ngũ hành và ngũ sắc, ngũ hành và ngũ vị, ngũ hành và ngũ tạng, ngũ hành và ngũ dịch, ngũ thanh…, kỳ thực là mối quan hệ giữa con người và vũ trụ, tất cả đều có thể dùng nó để giải thích rõ ràng.

Phương pháp quan sát đoán bệnh tình của y học cổ đại thực hiện theo khái niệm âm dương và ngũ hành, dùng cách đơn giản nhất, ví như ngũ tạng đều có thuộc tính của ngũ hành (gan là âm mộc, tim là âm hỏa, lá lách là âm thổ, phổi là âm kim, thận là âm thủy), ngũ phủ cũng có thuộc tính của Ngũ hành (túi mật là âm mộc, ruột non là âm hỏa, dạ dày là âm thổ, ruột già là âm kim, bàng quang là âm thủy), ngũ vị, ngũ sắc, ngũ mạch, cho đến Thiên can và Địa chi dùng để ghi ngày tháng năm cũng có thuộc tính Ngũ hành riêng của nó. Các mùa, giờ, ngày, tháng, năm đều có thuộc tính Ngũ hành của nó. Không những vậy, chúng còn có thuộc tính âm dương, đó là vì chúng có những điểm liên quan đến toàn bộ vũ trụ. Vậy nên ngũ sắc, ngũ vị của thuốc đều hình thành mối liên hệ nhất định với các phủ tạng trong cơ thể chúng ta. Việc chẩn đoán và điều trị bệnh trong y học cổ đại được suy xét theo hướng này.

Y học cổ đại cũng rất coi trọng sự tương tác giữa thầy thuốc và bệnh nhân, trong “Hoàng Đế Nội Kinh – Thang dịch giao lễ luận” có một đoạn: Đối với người bị bệnh tại sao lại không trị khỏi? Tại sao “một khi bệnh tình phát triển đến mức hình thể hư hại, khí huyết cạn kiệt thì việc điều trị không có hiệu quả”? Câu trả lời là “Đó là do thần khí của bệnh nhân đã không thể phát huy tác dụng vốn có của nó nữa”. Thế thì tại sao nói “thần khí không thể phát huy tác dụng vốn có của nó nữa”? Bởi vì châm cứu và kim đá là thể hiện của “Đạo”, nếu như “tinh thần của bệnh nhân đã tán loạn, ý chí cũng đã tán loạn, dù có phương pháp tốt thì thần khí cũng không khởi tác dụng, và bệnh cũng không chữa khỏi được”. Nhưng hiện hầu hết mọi người đều có “ham muốn vô tận và lo lắng vô tận” khiến “tinh khí tan rã, dinh vệ cạn kiệt cho nên thần khí đã mất, bệnh không khỏi”. “Tinh khí bại hoại thần khí mất” cho nên “dinh vệ không thể hồi phục” thì bệnh khó chữa được. Khi chữa bệnh cho người bằng châm cứu, nên chú ý đến “bản thần triều”, nghĩa là người bệnh và thầy thuốc phải hướng về nhau thì mới đạt được hiệu quả, vì vậy người ta nói “người bệnh và thầy thuốc không hướng vào nhau thì không chữa trị được”.

Y học cổ đại không chỉ dùng để chữa bệnh mà nội hàm của nó còn bao gồm cả dưỡng sinh. “Hoàng Đế Nội Kinh” về cơ bản là một cuốn sách nói về việc chữa bệnh, dưỡng sinh và tu luyện.

“Hoàng Đế Nội Kinh – Thượng Cổ Thiên Chân Luận” dạy mọi người rằng nếu biết thiên mệnh của mình, họ có thể sống và hưởng thụ những năm tháng Trời ban. Những người hiểu Đạo Pháp trong con người thời kỳ sớm nhất đều biết rằng họ nên đồng hóa với Âm Dương, phải biết thiên mệnh của mình là đã có định số, cho nên việc ăn uống và chỗ ở phải có sự tiết chế nhất định, không ép mình làm việc quá sức, vì vậy, cả hình thể và thần khí đều không xa rời Đạo Pháp, cho nên đều có thể đạt đến tuổi thọ tối đa và sống đến trăm tuổi mới qua đời.

“Hoàng Đế Nội Kinh – Thượng Cổ Thiên Chân Luận” cũng dạy mọi người rằng:

“Bậc thánh nhân thời Thượng cổ đã răn dạy người dưới mình, biết xa lánh hư tà tặc phong, trong lòng điềm đạm hư vô, chân khí vì thế mà thuận theo, tinh thần bền vững, bệnh còn do đâu mà sinh ra được. Vì vậy chí nhàn mà ít dục, tâm an mà không sợ, cơ thể hoạt động mà không mệt mỏi, chân khí điều hòa, mọi sự đều được mãn nguyện. Cho nên người ta ăn gì cũng thấy ngon, mặc gì cũng thấy hài lòng, ai cũng yêu phong tục tập quán của mình, sống vui vẻ, cho dù địa vị xã hội cao thấp đều không ngưỡng mộ riêng ai, vì vậy những người này có thể được gọi là thật thà chất phác. Do đó những điều ham muốn không thể làm mỏi mắt họ, những điều tà dâm không thể mê hoặc tâm họ, kẻ ngu, người khôn, người giỏi kẻ kém đều không vì sự biến đổi của sự vật ngoại giới mà động tâm lo lắng. Cho nên mới phù hợp với đạo dưỡng sinh, sở dĩ họ có thể sống trên trăm tuổi mà không tỏ ra già nua trong cử động chính là vì họ hiểu và nắm vững các phương pháp tu thân dưỡng tính mà không bị tà linh bên trong và bên ngoài can nhiễu làm tổn hại, đó là bởi đức toàn vậy.”

“Hoàng Đế Nội Kinh – Thượng Cổ Thiên Chân Luận” nói rằng thời cổ đại có “Chân Nhân”, “Chí Nhân”, “Thánh Nhân”“Hiền Nhân”, về cơ bản họ đều là những người tu luyện, tức là những người tu Đạo, họ đều hiểu được dưỡng sinh, và biết rằng ngoài việc bảo dưỡng hình thể, còn có một số điều về mặt tinh thần cần phải cải biến, chẳng hạn như không màng tới những ham muốn và chấp trước ở chốn nhân gian. “Chân Nhân” là người có thể nắm vững, nắm bắt được định số âm dương của trời đất. “Chí Nhân” là người có thể đồng hóa được với định số âm dương. “Thánh Nhân” là người có thể thuận theo cái lý của trời đất nhân gian, tức là người tốt trong số những người tốt, có thể bảo dưỡng tinh, khí, thần. “Hiền Nhân” tức là người có thể hòa hợp với trời đất và đạo nhân gian.

Từ việc quan sát bệnh, chữa bệnh cho đến phòng bệnh, các phương pháp của y học cổ đại đều là tập trung vào “điều hòa âm dương”“biến hóa thuận theo ngũ hành” để có thể đạt được mục đích. Đặc biệt là đối với việc quan sát và nghiên cứu vạn sự vạn vật trong trời đất vô cùng đơn giản và tiết kiệm, nhưng cũng cực kỳ hiệu quả và có thể áp dụng cho con người. Đây là một bộ hệ thống hoàn chỉnh và đồ sộ, vượt quá nhận thức của y học hiện đại. Bản thân y học hiện đại khi thử vận dụng một vài phương pháp bề mặt của y học cổ đại, kết hợp với khoa học để lần mò phát triển, thì cũng thu được thành tựu, nhưng lại rất hạn chế.

Dựa theo “Mạn đàm Trung y
Đăng trên ChanhKien.org
Tác giả: Hồ Nại Văn

Xem thêm:

Mời xem video:

Hồ Nại Văn

Published by
Hồ Nại Văn

Recent Posts

Hungary sẽ triển khai hệ thống phòng không gần biên giới của Ukraine

Trước tình hình căng thẳng, Hungary đang lên kế hoạch triển khai hệ thống phòng…

22 phút ago

Quân đội Mỹ sẵn sàng sử dụng vũ khí hạt nhân nếu cần

Chuẩn Đô đốc Thomas Buchanan tuyên bố rằng Mỹ sẵn sàng sử dụng vũ khí…

29 phút ago

Nga bắn tên lửa tầm trung, không phải ICBM — Tổng thống Putin

Putin: Nếu Mỹ muốn chiến thì Nga cũng phải theo, và tên lửa bắn vào…

2 giờ ago

Một ứng viên xin rút công nhận chức danh phó giáo sư năm 2024

HĐGSNN vừa công nhận đạt tiêu chuẩn chức danh giáo sư, phó giáo sư năm…

8 giờ ago

Ông Vương Đình Huệ bị kỷ luật cảnh cáo

Ông Vương Đình Huệ có sai phạm trong phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; vi…

9 giờ ago

Ông Musk và ông Ramaswamy viết bài xã luận trên WSJ vạch ra tầm nhìn về DOGE

Ông Musk và ông Ramaswamy đã cùng chấp bút một bài xã luận đăng trên…

9 giờ ago