“Ngày Độc lập Hoa Kỳ” là ngày quốc gia này tách khỏi Vương quốc Liên hiệp Anh và tuyên bố độc lập. Hoa Kỳ ban hành “Tuyên ngôn độc lập” tại Quốc hội Lục địa vào ngày 4/7/1776 và chọn ngày này là Ngày Quốc khánh Hoa Kỳ.
Tên đầy đủ của “Tuyên ngôn độc lập Hoa Kỳ” là “Tuyên ngôn nhất trí của 13 Hợp chủng quốc Hoa Kỳ tại Quốc hội ngày 4/7/1776”, một văn bản hiến pháp trong đó nhân dân 13 nước ở Bắc Mỹ thuộc địa Anh tuyên bố độc lập. 56 đại diện từ mỗi thuộc địa đã ký vào bản “Tuyên ngôn độc lập” này.
Tuyên ngôn độc lập được chia thành 3 phần. Phần thứ nhất trình bày những nguyên tắc cơ bản về quyền con người, tức là mọi người sinh ra đều bình đẳng và có những quyền bẩm sinh bất khả xâm phạm, như mưu cầu hạnh phúc và tự do.
Phần thứ hai chỉ ra rằng người Anh đã tiến hành bóc lột vô lý người dân các thuộc địa Bắc Mỹ, và thực hiện chế độ chuyên chế vào thời điểm đó.
Phần thứ ba tuyên bố 13 vùng thuộc địa ở Hoa Kỳ đoàn kết lại thành “Hợp chủng quốc Hoa Kỳ” (The United States of America), và tuyên bố rằng “Hợp chủng quốc Hoa Kỳ” sẽ tách khỏi Vương quốc Anh, trở thành một quốc gia liên bang tự do và độc lập.
Ngày 5/9/1774, đại diện của 13 thuộc địa của Anh ở Bắc Mỹ tập trung tại Philadelphia để triệu tập Đại hội Lục địa lần thứ nhất, với mong muốn thảo luận với Chính phủ Anh và giải quyết xung đột một cách hòa bình.
Ngày 19/4/1775, George Washington giữ chức tổng tư lệnh và lãnh đạo Quân đội Cách mạng Hoa Kỳ chiến đấu với người Anh. Dưới sự hòa giải ngoại giao của Benjamin Franklin, Pháp và Tây Ban Nha đã cung cấp vật tư chiến tranh cho chính quyền thuộc địa Bắc Mỹ và đánh bại người Anh.
Ngày 4/7/1776, Hoa Kỳ đã ban hành “Tuyên ngôn độc lập Hoa Kỳ” tại “Quốc hội Lục địa” Bắc Mỹ, và chỉ định ngày này là “Ngày Quốc khánh Hoa Kỳ”.
Vào ngày 4/7/1777, Philadelphia đã tổ chức một sự kiện nhằm kỷ niệm “Ngày độc lập đầu tiên của nước Mỹ”. Lễ kỷ niệm bao gồm: Tiếng chuông nhà thờ rung lên, 13 tiếng súng chào mừng, các cuộc duyệt binh, tuần hành, cầu nguyện, diễn thuyết, hòa nhạc và nướng bánh mỳ.
Bữa tối chính thức của “Quốc hội Lục địa Bắc Mỹ”, pháo hoa và những con tàu được trang trí bằng đồ trang trí màu đỏ, trắng và xanh. Những hoạt động kỷ niệm này đã trở thành cách người Mỹ kỷ niệm Ngày Độc lập.
Tháng 9/1781, quân đội Anh bị quân đội “Thuộc địa Bắc Mỹ” do Washington chỉ huy đánh bại tại Yorktown. Anh buộc phải đàm phán hòa bình với “Thuộc địa Bắc Mỹ”, “Chiến tranh giành độc lập của Mỹ” chính thức kết thúc. Cùng năm đó, Tòa án Tư pháp Massachusetts trở thành cơ quan lập pháp đầu tiên công nhận ngày 4/7 là ngày lễ quốc gia.
Năm 1783, dưới sự lãnh đạo của Washington, Hoa Kỳ ký “Hiệp ước Paris” với Anh trên cơ sở bình đẳng. Cộng đồng quốc tế chính thức công nhận nền độc lập của “13 thuộc địa ở Bắc Mỹ” tách khỏi Anh và thành lập “Hợp chủng quốc Hoa Kỳ”.
Năm 1791, lần đầu tiên Hoa Kỳ sử dụng “Ngày Độc lập” làm tên ngày lễ cho “Ngày Độc lập Hoa Kỳ”.
Năm 1870, Quốc hội Hoa Kỳ xác nhận Ngày Độc lập như một ngày nghỉ lễ liên bang không được trả lương cho nhân viên Hoa Kỳ.
Năm 1938, Quốc hội Hoa Kỳ xác nhận Ngày Độc lập như một ngày nghỉ lễ liên bang được trả lương cho nhân viên Hoa Kỳ. Vào ngày 4/7, hầu hết các cơ quan liên bang đều nghỉ một ngày.
Các đồ trang trí như ruy băng, bóng bay và hoa văn trên quần áo được sử dụng trong lễ hội thường sử dụng màu đỏ, trắng và xanh của quốc kỳ Mỹ làm vật trang trí chính.
Người dân Mỹ sẽ dọn dẹp nhà cửa và treo cờ trước ngày 4/7, tức Ngày Độc lập, để chào mừng ngày Quốc khánh. Vào ngày 3/7 hàng năm, đêm trước ngày “Ngày Độc lập Hoa Kỳ”, lễ kỷ niệm đã bắt đầu. Sự kiện chính là đốt lửa trên các tháp lửa cao được dựng bằng thùng gỗ, rất náo nhiệt.
Vào “Ngày Quốc khánh Hoa Kỳ”, mọi bang ở Hoa Kỳ sẽ tổ chức bắn pháo hoa, diễu hành xe hoa, biểu diễn nghệ thuật, đấu bóng chày, thi ăn xúc xích và các hoạt động khác. Điều quan trọng nhất trong số này là rung “Chuông Tự do” ở Philadelphia. Tổng thống Hoa Kỳ và các quan chức phải đọc các bài phát biểu, diễn thuyết.
Trưa hôm đó, các căn cứ quân sự của Mỹ sẽ bắn “Chào liên bang” theo số bang của Mỹ. Màn bắn pháo hoa vào buổi tối là đỉnh cao của các hoạt động trong ngày. Các hoạt động riêng tư rất tùy hứng, thường gồm du lịch, cắm trại, tiệc nướng, uống bia, đến khu công viên giải trí, đi biển, xem biểu diễn, tụ tập với bạn bè và gia đình, v.v.
Lòng yêu nước ở Mỹ không phải là một khẩu hiệu hời hợt, mà là tình cảm chôn sâu trong lòng người Mỹ. Theo nhiều cuộc khảo sát, lòng yêu nước của người Mỹ nhiều lần đứng đầu thế giới. Quốc kỳ được treo trong các trường học và lớp học ở Hoa Kỳ. Học sinh tiểu học, trung học cơ sở và tiểu học hát quốc ca trước lá cờ mỗi ngày.
Các cuộc khảo sát cho thấy, người Mỹ yêu nước hơn sau vụ 11/9 so với trước đây. Tình cảm yêu nước xuất phát từ trái tim của người dân, chứ không phải là điều mà chính phủ cố tình giáo dục và yêu cầu.
Người Mỹ ủng hộ dân chủ và tự do. Ở Hoa Kỳ, dân chủ, tự do tư tưởng, ngôn luận, tín ngưỡng, v.v. được hiến pháp quốc gia bảo đảm. Miễn là không vi phạm pháp luật, người dân có thể nói lên quan điểm của mình, bàn luận về chính trị, chỉ trích tổng thống, các nghị sĩ và quan chức cấp cao, thậm chí còn có thể yêu cầu tổng thống từ chức.
Quốc kỳ Mỹ hay quốc kỳ Hoa Kỳ là một hình chữ nhật gồm 13 đường sọc ngang màu đỏ – trắng xen kẽ và 50 ngôi sao trắng trên nền một hình chữ nhật xanh đặt bên góc trái lá cờ.
Cờ Mỹ sử dụng 3 màu sắc đặc trưng là đỏ – trắng – xanh và vẫn không đổi từ thuở sơ khai cho đến ngày nay. Mỗi sắc tố đều hàm ý những giá trị vô cùng sâu sắc:
Quốc huy của Hoa Kỳ gồm 2 “vòng tròn đồng tâm”. Bên trong vòng tròn là một con đại bàng đầu trắng đang sải cánh, chiếm phần lớn không gian bên trong.
Trên đầu đại bàng là 13 ngôi sao đang tỏa sáng trên bầu trời xanh, tượng trưng cho 13 “vùng đất thuộc địa” khi nước Mỹ được thành lập. Các ngôi sao tỏa sáng rực rỡ và được bao quanh bởi họa tiết mây trắng.
Móng vuốt bên phải của đại bàng nắm lấy một “cành ô liu”, tượng trưng cho hòa bình. Móng vuốt bên trái của nó nắm lấy “13 mũi tên sắc nhọn”, tượng trưng cho sức mạnh đến từ chiến tranh.
Mỏ đại bàng ngậm một dải ruy băng màu trắng, với dòng chữ Latinh màu đen “E Pluribus Unum” (Hợp chủng quốc), tượng trưng cho sự thống nhất của nhiều bang ở Hoa Kỳ để tạo thành một “Hợp chủng quốc Hoa Kỳ”. Trước ngực của đại bàng là phần tượng trưng cho lá cờ Mỹ.
Nói chung, quốc huy của Hoa Kỳ tượng trưng cho nước cộng hòa liên bang có chủ quyền mới.
Từ năm 1812 đến năm 1815, “13 vùng đất thuộc địa ở Bắc Mỹ” đã chiến đấu chống lại người Anh để giành độc lập. Lịch sử gọi là “Chiến tranh giành độc lập lần thứ 2 của Mỹ”.
Ngày 13/9/1814, nhà thơ người Mỹ Francis Scott Key nhìn thấy lá cờ Mỹ vẫn tung bay phấp phới trong gió trên lâu đài trong làn khói pháo. Ông ngay lập tức bị thu hút sâu sắc bởi cảnh tượng này, và viết một bài thơ.
Ngày hôm sau, ông gửi bản thảo bài thơ cho thẩm phán Nicholson bình phẩm. Vị thẩm phán rất tán thưởng và đề nghị rằng bài thơ này nên ghép với bản nhạc “To Anacreon in Heaven” rất nổi tiếng khi đó, được sáng tác bởi nhà soạn nhạc người Mỹ John Stafford Smith, đồng thời đặt tên cho bài hát này là “The Star-Spangled Banner” (Lá cờ lấp lánh ánh sao).
Bình Minh (t/h)
Bệnh tiểu đường có thể gây ra rất nhiều tác hại đối với cơ thể,…
Trước tình hình căng thẳng, Hungary đang lên kế hoạch triển khai hệ thống phòng…
Chuẩn Đô đốc Thomas Buchanan tuyên bố rằng Mỹ sẵn sàng sử dụng vũ khí…
Putin: Nếu Mỹ muốn chiến thì Nga cũng phải theo, và tên lửa bắn vào…
HĐGSNN vừa công nhận đạt tiêu chuẩn chức danh giáo sư, phó giáo sư năm…
Ông Vương Đình Huệ có sai phạm trong phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; vi…