Sức Khỏe

Có phải các hóa chất độc hại đang biến bé trai thành bé gái?

Tỷ lệ sinh con trai tự nhiên đã giảm dần trong nhiều thập kỷ. Các nhà nghiên cứu cho rằng tổn thương phát triển cơ quan sinh dục do phơi nhiễm hóa chất có thể di truyền.

(Ảnh: Shutterstock)

Các bé trai đang ở đâu?

Vào đầu tháng 4/1998, Tạp chí Hiệp hội Y khoa Hoa Kỳ (Journal of the American Medical Association) đã âm thầm công bố một báo cáo đặc biệt hé lộ một tin tức đáng lo ngại. Tỷ lệ sinh con trai tại các quốc gia công nghiệp hóa đã giảm mạnh kể từ năm 1970, đảo ngược hoàn toàn xu hướng trước đó. Các số liệu ghi nhận đến năm 2014 cho thấy xu hướng này vẫn tiếp tục.

Từ lâu, số bé trai sinh ra luôn chiếm một lợi thế nhỏ so với bé gái, có lẽ là cách mà tự nhiên đảm bảo rằng đủ số lượng trẻ sơ sinh nam – vốn dễ tổn thương hơn về mặt thể chất – có thể sống sót. Trong nửa đầu thế kỷ 20, từ năm 1900 đến 1950, tỷ lệ sinh trung bình là 106 bé trai trên mỗi 100 bé gái. Điều này có thể là do các tiến bộ trong sản khoa giúp nhiều bé trai sống sót hơn trong thai kỳ và quá trình sinh nở. Tuy nhiên, số liệu điều tra dân số sau năm 1970 cho thấy xu hướng này đã đảo ngược với sự sụt giảm đáng kể số trẻ sơ sinh nam. Ngày nay, tại các quốc gia công nghiệp hóa như Canada, Hoa Kỳ, Thụy Điển và Hà Lan, tỷ lệ này đã giảm mạnh. 

Điều gì thực sự đang xảy ra? Dù có vẻ trái ngược với trực giác, các nhà khoa học môi trường hàng đầu cho rằng những bé trai này thực chất có thể đã được sinh ra dưới hình hài nữ.

Sự thay đổi đáng lo ngại và phi tự nhiên trong tỷ lệ giới tính không chỉ đe dọa đến sự tồn tại của loài người mà còn ảnh hưởng đến các chuẩn mực văn hóa nếu xu hướng này tiếp diễn. Và vì các nhà khoa học đã xác định được một nguyên nhân rõ ràng và có thể đảo ngược của sự thay đổi này, đó là các hóa chất tổng hợp giả dạng hormone, hay các chất gây rối loạn nội tiết (Endocrine Disrupting Chemicals – EDCs)

Phát hiện này không gây ngạc nhiên đối với những ai hiểu về sự phát triển của thai nhi. Các tế bào tuyến sinh dục (gonadal cells) – những tế bào hình thành cơ quan sinh dục nam và nữ – phát triển nhanh hơn hầu hết các loại tế bào khác, chẳng hạn như tế bào xương hoặc cơ, trong quá trình phát triển của thai nhi. Do đó, chúng cực kỳ dễ bị ảnh hưởng bởi các hóa chất tổng hợp có khả năng biến đổi gen.

Nhưng làm thế nào một loại hóa chất có thể thay đổi tương lai giới tính của một con người? Câu trả lời nằm ở chỗ sự phát triển giới tínhphụ thuộc vào những quá trình sinh hóa được cân bằng một cách tinh tế.

Biến bé trai thành bé gái

Trong vòng sáu tuần sau khi thụ thai, phôi thai đang phát triển mạnh mẽ sẽ hình thành tim, miệng, chi, mắt, cơ bắp, một cặp tuyến sinh dục trung tính và hai bộ ống sinh dục – một nam, một nữ. Bước tiếp theo là sự phát triển của cơ quan sinh dục.

Gần cuối tháng thứ hai của thai kỳ, thai nhi bắt đầu phát triển cơ quan sinh dục. Theo cơ chế tự nhiên, cơ thể thai nhi sẽ mặc định phát triển theo hướng nữ trừ khi có sự can thiệp từ hormone nam, được truyền đến nếu em bé có giới tính nam về mặt di truyền. Nếu không có tín hiệu từ hormone nam, phôi thai nhỏ bé – chỉ bằng hạt đậu – sẽ tự động phát triển thành cơ quan sinh dục nữ, bất kể bộ gen là nam (XY) hay nữ (XX).

Tuy nhiên, nếu có bất kỳ yếu tố nào cản trở quá trình hormone nam tiêu hủy các ống sinh dục nữ hoặc kích hoạt sự phát triển giới tính nam, cơ quan sinh dục nam sẽ không hình thành. Vì vậy, ngay cả khi em bé mang nhiễm sắc thể nam (Y), bé vẫn có thể phát triển thành nữ giới kiểu hình, tức là có bộ phận sinh dục nữ và ngoại hình nữ tính. Cơ thể của bé sẽ mang đặc điểm nữ giới, nhưng về mặt di truyền, vẫn là nam giới.

Các chất gây rối loạn nội tiết (EDCs) có cấu trúc tương tự hormone sinh dục (estrogen, testosteron) có thể làm lệch quá trình phát triển giới tính nam. Hiện tượng đảo ngược giới tính (sexual inversion) – tức là sự thất bại trong việc phát triển cơ quan sinh dục, xu hướng tính dục hoặc hành vi theo giới tính di truyền – sẽ tạo ra sự bất tương xứng giới tính ở thai nhi khi quá trình điều tiết hormone bị gián đoạn.

Ví dụ, các chất bắt chước estrogen như dioxin – một chất gây ô nhiễm phổ biến và cũng là một chất gây rối loạn nội tiết mạnh – có thể chặn và làm gián đoạn tín hiệu hormone từ một gen nam. Dioxin cũng hoạt động như một chất loại bỏ testosterone, làm giảm nồng độ hormone nam đến mức không đủ để kích hoạt quá trình phát triển giới tính nam. Các chất ức chế testosterone như thuốc trừ sâu DDT có thể ngăn chặn testosterone gắn vào thụ thể của nó. Trong khi đó, các chất kích thích hormone có thể đẩy mạnh tác động của một hormone tự nhiên đến mức hệ thống ngừng hoạt động và từ chối tiếp nhận tín hiệu “bật công tắc” giới tính nam.

Trên thực tế, nghiên cứu đã chứng minh rằng việc tiếp xúc với các chất gây rối loạn nội tiết (EDCs) vào thời điểm quan trọng có thể làm gián đoạn toàn bộ quá trình hình thành cơ quan sinh dục. Chỉ cần một liều rất nhỏ dioxin được đưa vào chuột thí nghiệm trong giai đoạn biệt hóa cơ quan sinh dục cũng có thể ảnh hưởng đến sự phát triển giới tính của chuột con đực. Nhưng tác động này không chỉ giới hạn ở động vật – thỉnh thoảng, chúng ta vẫn thấy những trường hợp tương tự xảy ra ở con người trong thực tế.

Thảm họa EDC

Mùa hè năm 1976, một nhà máy sản xuất xà phòng dược phẩm tại thị trấn nhỏ Seveso, miền Bắc nước Ý, đã phát tán một đám mây hóa chất khổng lồ chứa dấu vết dioxin lan rộng ra 5 thị trấn lân cận.

Vụ tai nạn đã thay đổi hoàn toàn cuộc sống của những người làm việc trong nhà máy và cư dân sống trong vùng ô nhiễm. Tai nạn xảy ra vào giữa đêm, nhưng trong hai ngày đầu tiên, không ai biết chuyện gì đã xảy ra. Sau đó, họ bắt đầu cảm thấy da bị bỏng rát. Nhiều trẻ em bị phồng rộp nghiêm trọng đến mức phải nhập viện. Gà và thỏ chết hàng loạt, và thị trưởng cảnh báo người dân không được chạm vào rau củ hay trái cây trong vườn nhà.

Nhiều gia đình rời bỏ nhà cửa trong khi công ty hóa chất tiến hành dọn dẹp toàn bộ thị trấn. Họ bỏ lại tất cả tài sản vì chất độc đã bao phủ mọi thứ. Các bác sĩ của công ty hóa chất đã khuyên phụ nữ mang thai nên phá thai, vì họ lo ngại thai nhi có thể bị tổn thương.

Trong 7 năm sau thảm họa, tỷ lệ sinh sản của những người bị phơi nhiễm nặng giảm mạnh, và số bé gái sinh ra cao gấp đôi so với bình thường. Từ năm 1977 đến 1984, có 74 trẻ sơ sinh được sinh ra từ những cặp vợ chồng sống gần nhà máy nhất, trong đó 48 bé là gái, trong khi theo thống kê, con số này chỉ nên là 34. Đặc biệt, những cặp cha mẹ có mức hóa chất trong máu cao nhất không sinh được bé trai nào. Trong thời gian này, nhiều gia đình chỉ sinh con gái, ngay cả khi gia đình người cha trước đó có truyền thống sinh con trai.

Nhóm y tế đặt mốc thời gian bảy năm để đánh giá tình trạng của những người bị phơi nhiễm, vì họ biết rằng thời gian bán hủy của dioxin trong cơ thể là bảy năm. Do đó, trong khoảng thời gian này, lượng dioxin trong cơ thể được kỳ vọng sẽ giảm đi ít nhất một nửa. Thực tế đã chứng minh điều đó đúng. Trong mười năm tiếp theo, tỷ lệ sinh con trai của những người bị ảnh hưởng đã trở lại bình thường.

Hội chứng rối loạn sinh dục nam và hóa chất gây rối loạn nội tiết (EDCs)

Sự cố Seveso rõ ràng là một ví dụ cực đoan, nhưng nó cũng cho thấy các tác động rõ ràng ở mức độ cao và đồng thời đặt ra lo ngại về những ảnh hưởng khi tiếp xúc ở mức thấp hơn. Hậu quả của việc tiếp xúc với hóa chất ở mức thấp đôi khi tuân theo một đường cong hình chữ U, trong đó mức độ cao nhất và thấp nhất gây ảnh hưởng nhiều hơn mức độ trung bình. Trong khi đó, một số tác động khác phụ thuộc vào liều lượng, nghĩa là liều cao sẽ gây ảnh hưởng lớn hơn liều thấp.

Việc phơi nhiễm EDC ở nhiều mức độ khác nhau, tùy thuộc vào loại hóa chất, có thể vẫn cho phép bộ phận sinh dục nam hình thành nhưng làm gián đoạn sự phát triển bình thường của nó. Điều này rất khó đo lường ở người, vì quá trình tiếp xúc thường không được ghi nhận đầy đủ. 

Tuy nhiên, các nghiên cứu đối chứng chất lượng cao trên động vật đã chứng minh rõ ràng mối liên hệ giữa EDCs và các vấn đề như: lỗ tiểu lệch thấp, tinh hoàn ẩn, ung thư tuyến tiền liệt ở người trưởng thành, dị tật mào tinh hoàn, túi tinh và ống dẫn tinh, biến đổi tế bào sinh tinh, giảm nồng độ và khả năng di chuyển của tinh trùng. Hội chứng rối loạn sinh dục nam dường như có liên quan đến tác động kháng androgen của các EDC như phthalates và thuốc trừ sâu. Một số rối loạn sinh sản và tình dục ở nam giới xuất hiện ngay từ khi sinh ra, một số bộc lộ ở tuổi dậy thì, và một số khác, như ung thư tuyến tiền liệt, chỉ xuất hiện khi trưởng thành.

Những vấn đề này lẽ ra phải thúc đẩy xã hội và thế giới đấu tranh chống lại việc sản xuất và sử dụng hóa chất độc hại một cách không kiểm soát như hiện nay. Sức mạnh kinh tế của chúng ta có thể tạo ra sự thay đổi – nếu chúng ta từ chối mua các sản phẩm chứa độc tố, thì các công ty hóa chất và dược phẩm sẽ phải đáp ứng nhu cầu bằng cách cung cấp sản phẩm an toàn hơn.

Cho đến nay, chỉ một số ít EDCs bị cấm, và ngay cả những chất đó vẫn có thể đang tồn tại trong những nguồn cung hiện có.

Nhiều phụ nữ mang thai sống và làm việc trong môi trường có EDC mỗi ngày nhưng lại không được bảo vệ đầy đủ. Ví dụ, một phụ nữ làm việc tại cửa hàng nông nghiệp hoặc vườn sẽ tiếp xúc hàng ngày với các thuốc trừ sâu gốc phosphat hữu cơ, thuốc diệt cỏ và thuốc diệt nấm.

Hóa chất trong nhựa có mặt ở khắp mọi nơi do nhựa xuất hiện trong hầu hết các vật dụng hàng ngày. Ngay cả các chất thay thế nhựa như BPA-free, BPS, BPF cũng độc hại không kém BPA. Hầu hết phụ nữ không biết rằng họ đang tiếp xúc với EDCs ngay cả khi chỉ đi dạo trong công viên, bước vào các tòa nhà công cộng, hoặc sống gần khu vực trồng trọt có phun thuốc bảo vệ thực vật. Những hóa chất này có thể truyền sang thai nhi đang phát triển trong bụng mẹ. Các nhà máy xử lý nước thường không kiểm tra hoặc loại bỏ estrogen trong nước. Vì vậy, nước máy chưa lọc có thể là một nguồn chứa hormone tổng hợp và các hóa chất EDC. Trớ trêu thay, một số nhà máy xử lý nước thậm chí còn làm tăng nồng độ estrogen trong nước.

Các chất gây rối loạn nội tiết phổ biến trong cuộc sống hàng ngày

Chất gây rối loạn nội tiết  được định nghĩa là: “Một hóa chất ngoại sinh hoặc hỗn hợp hóa chất có khả năng can thiệp vào bất kỳ khía cạnh nào của hoạt động hormone”. Dưới đây là một số ví dụ về EDCs và nguồn gốc của chúng, mặc dù danh sách này vẫn chưa đầy đủ:

Thuốc trừ sâu tổng hợp và sản phẩm phân hủy của chúng – Bao gồm organophosphates, organochlorines, carbamates, được sử dụng trong nông trại, tòa nhà công cộng, vườn nhà hàng xóm, bãi cỏ. (Các sản phẩm biến đổi gen – GMO – cho phép sử dụng nhiều hóa chất này hơn). 

  • Chlorotriazines – Thuốc diệt cỏ dùng trong nông trại, công viên, sân golf.
  • Benzenes – Có trong dung môi, chất trám, hồ tinh bột giặt, thảm nhỏ, thảm phòng tắm, dầu bôi trơn, công nghiệp ô tô.
  • Phthalates (Chất làm dẻo) – Dùng trong nhựa mềm.
  • BPA, BPS, BPF – Có trong nhựa, thực phẩm và đồ uống đóng hộp, bao bì thực phẩm.
  • PCBs (Polychlorinated Biphenyls) – Dùng trong lớp phủ chống cháy, nhựa, thiết bị điện.
  • Dioxins – Sinh ra từ xử lý clo, sản xuất nhựa, đốt sản phẩm chứa clo, nhà máy hóa chất, máy biến áp, quá trình tẩy trắng.
  • Benzo(a)pyrene – Có trong khói thuốc lá, nhựa than đá, khí thải ô tô.
  • Pyrethrins và Permethrin – Thành phần của thuốc trừ sâu, thuốc trị ve rận cho thú cưng.
  • PBBs (Polybrominated Biphenyls) – Tồn tại trong môi trường nền, gây phơi nhiễm lâu dài.
  • Nhiều loại dung môi khác – Xuất hiện trong sản phẩm tẩy rửa, dầu bôi trơn.
  • Phenols – Dùng trong chất tẩy rửa, thuốc trừ sâu, chất diệt tinh trùng, mỹ phẩm, nhựa, xà phòng, sơn latex, dầu bôi trơn.
  • Styrenes – Được tìm thấy trong sản xuất nhựa, sáp sàn, chất đánh bóng, sơn, keo dán, thuốc lá, khí thải xe, hộp đựng thực phẩm.
  • Furans – Sử dụng để hòa tan keo dán, nhựa, sơn, véc-ni, vải.
  • Kim loại nặng như chì, cadmium và thủy ngân – có mặt trong sơn, pin, mực màu, xi mạ, khai khoáng, hàn điện, linh kiện điện tử, nha khoa, lò nung, thu hồi kim loại, nông nghiệp, sản xuất clo và đèn huỳnh quang, thiết bị đo nhiệt độ, cá biển lớn (cá mập, cá thu vua, cá kiếm, cá ngói).
  • Nước máy chưa lọc – Có thể chứa estrogen từ thuốc hormone, thuốc trừ sâu và nhiều chất gây rối loạn nội tiết khác.

Mặc dù một phụ nữ không thể tự nhốt mình trong phòng ngủ trong suốt thai kỳ, nhưng việc nâng cao nhận thức về các nguồn phơi nhiễm EDCs có thể giúp bảo vệ thai nhi.  Bất kỳ nỗ lực nào mà người mẹ có thể thực hiện để giảm tiếp xúc với hóa chất, chẳng hạn như giữ cho ngôi nhà – nơi cô ấy dành phần lớn thời gian – ít hóa chất nhất có thể, tránh những khu vực hoặc hoạt động có mức ô nhiễm hóa chất cao, kết hợp các biện pháp bảo vệ như máy lọc không khí và lọc nước, và chuyển sang dùng các sản phẩm an toàn, có nguồn gốc tự nhiên, đều giúp giảm nguy cơ tổng thể đối với em bé.

Tú Liên (t/h)

Tú Liên

Published by
Tú Liên

Recent Posts

Trung Quốc: Dự kiến từ 50.000 – 100.000 hiệu thuốc sẽ đóng cửa trong năm nay

Ở Trung Quốc Đại Lục, xuất hiện một làn sóng đóng cửa các hiệu thuốc.…

47 phút ago

Hack tài khoản facebook để lừa đảo, nghi phạm lập 10 sổ tiết kiệm tiền tỷ

Khám xét nhà của nghi phạm, công an thu giữ 10 sổ tiết kiệm trị…

48 phút ago

Tổng thống Trump: Các cuộc đàm phán phân chia lãnh thổ giữa Moskva và Kiev đang diễn ra

Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump hôm thứ Sáu (21/3) cho biết các cuộc đàm…

48 phút ago

Ông Trump xem xét dỡ trừng phạt, nối lại bán máy bay chiến đấu cho Thổ Nhĩ Kỳ

Tổng thống Hoa Kỳ Mỹ Donald Trump đang cân nhắc việc dỡ bỏ các lệnh…

1 giờ ago

Hà Nội: Bé gái 4 tuổi tử vong do sởi sau 1 ngày nhập viện

Một bé gái 4 tuổi ở quận Nam Từ Liêm tử vong do sởi, với…

1 giờ ago

Tổng thống Trump loan báo: Boeing sẽ chế tạo phi cơ chiến đấu thế hệ thứ 6 ‘F-47’

Tổng Thống Donald Trump đã tuyên bố rằng Boeing sẽ chế tạo phi cơ chiến…

2 giờ ago