Trận đánh trên sông Bạch Đằng. (Tranh dân gian: Chiến thắng sông Bạch Đằng lần thứ nhất, Public Domain)
Người xưa cho rằng mặt trời chỉ có một, nước không thể có 2 Vua. Ấy vậy mà sử Việt có thời kỳ chứng kiến 2 vị Vua cùng trị quốc, đây là việc lạ lùng hiếm thấy trong lịch sử nói chung.
Năm 931, Dương Đinh Nghệ đưa quân từ Ái châu (Thanh Hóa ngày nay) tiến ra thành Đại La (sau này là thành Thăng Long) đánh bại quân Nam Hán mang lại độc lập cho dân tộc. Tuy nhiên Kiều Công Tiễn phản bội đã giết chết Dương Đình Nghệ.
Ngô Quyền nghe tin dữ liền đưa quân từ Ái châu ra thành Đại La hỏi tội. Công Tiễn lo sợ cho người cầu cứu quân Nam Hán. Ngô Quyền cho quân đến thành Đại La diệt được Công Tiễn rồi chuẩn bị quyết chiến với quân Nam Hán.
Khi Hoằng Tháo cùng quân Nam Hán tiến vào theo đường biển, Ngô Xương Ngập là người hiến kế đóng cọc nhọn trên sông Bạch Đằng rồi dụ quân Nam Hán tiến vào.
Cuốn Ngọc phả xã Lương Xâm (nay thuộc phường Nam Hải, quận Hải An, TP Hải Phòng) còn gọi là “Ngọc phả về Tiền Ngô Vương Thiên tử” ghi chép rằng hay tin Hoằng Tháo cùng quân Nam Hán đang đến, Ngô Quyền cùng các tướng bàn kế sách. Trong cuộc họp Ngô Quyền nói rằng:
“Hoằng Tháo là đứa trẻ khờ dại, mang quân từ xa đến, quân lính mỏi mệt, lại nghe tin Công Tiễn đã chết, không có người làm nội ứng, chí khí đã bị mất rồi. Ta lấy sức còn khỏe để địch với sức đang yếu, tất sẽ phá được địch”.
Nói đến đây bỗng ở trong ban bộ có một người dâng lời, bảo rằng: “Quân địch có lợi thế ở chiến hạm, ta chưa chuẩn bị trước thì thắng thua chưa biết thế nào. Xin phụ thân cho trồng cọc ở hai bên cửa biển, khi nước thủy triều dâng lên, sai người lấy thuyền nhẹ giao chiến với quân địch, giả dạng thua chạy để mà đánh, tất quân của Hoằng Tháo tự như ngói mà tan vỡ!”.
Vương cho là đúng, mới đưa mắt nhìn người nói, hóa ra là con trưởng Xương Ngập.
Sau chiến thắng quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng, Ngô Quyền lên ngôi Vua. Năm 944, Ngô Quyền lâm bệnh nặng, trước khi mất giao cho em vợ là Dương Tam Kha giúp đưa con trưởng là Ngô Xương Ngập lên ngôi.
Dương Tam Kha gặp mọi người bàn việc đưa Ngô Xương Ngập lên ngôi, lại đồng thời sai người giết Ngô Xương Ngập để cướp ngôi. Cung tần Thúy Nga biết được âm mưu này, vốn là người chịu ơn Ngô Quyền nên báo lại cho hai người thân tín của Ngô Xương Ngập là Đỗ Thoan và Phạm Bạch Hổ biết.
Do Dương Tam Kha nắm hết binh quyền, Đỗ Thoan và Phạm Bạch Hổ phải đưa Ngô Xương Ngập chạy trốn đến quê nhà Phạm Bạch Hổ ở làng Trà Hương, Nam Sách Giang (nay thuộc làng Thuỵ Trà, xã Nam Trung, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương), nương nhờ hào trưởng vùng này là Phạm Chiêm (còn gọi là Phạm Lệnh Công, là cha của Phạm Bạch Hổ). Phạm Chiêm vốn là một tướng tâm phúc của Ngô Quyền trước đây.
Trong khi đó tại Triều đình, Dương Tam Kha tự lên ngôi Vua, xưng là Dương Bình Vương. Quan đại phu là Phạm Man (bà con của Phạm Bạch Hổ) phản đối liền bị chém đầu và tru di cả nhà, may mà con trai là Phạm Cượng Lượng trốn thoát được.
Dương Tam Kha sai tướng quân Đỗ Cảnh Thạc và Dương Cát Lợi lùng bắt Ngô Xương Ngập. Phạm Lệnh Công đưa Ngô Xương Ngập đến vùng núi Côn Sơn trú ẩn. Quân Triều đình từng đốt khu vực núi Côn Sơn, hun khói để ép Ngô Xương Ngập ra hàng, nhưng cũng không thành. Từ đó mà núi Côn Sơn còn có tên gọi khác là núi Hun Sơn.
Ngô Xương Ngập trốn thoát được cũng nhờ có Đỗ Cành Thạc. Vị tướng này nhận lệnh truy bắt Ngô Xương Ngập, nhưng vì trung thành với nhà Ngô nên Đỗ Cảnh Thạc 3, 4 lần cố tình làm ngơ để Ngô Xương Ngập có cơ hội trốn thoát được.
Trong thời gian nương nhờ sự che chở của Phạm Lệnh Công, con gái (có nguồn sử cho là cháu nội) của Lệnh Công là Phạm Thị Uy Duyên (còn có tên là Phạm Thị Ngọc Dung) lo việc chăm sóc cho Ngô Xương Ngập. Thấy hai người đã có tình cảm, Phạm Lệnh Công vui vẻ tác thành cho hai người và tổ chức hôn lễ.
Trong khi đó ở Kinh thành, Dương Tam Kha nhận em của Ngô Xương Ngập cũng là cháu của mình là Ngô Xương Văn làm con nuôi.
Nhiều người không phục Dương Tam Kha nổi lên cát cứ, tự lập các Sứ quân chống lại. Năm 950, Dương Tam Kha sai Ngô Xương Văn đi đánh chiếm cát cứ của Sứ quân Nguyễn Khoan và Ngô Nhật Khánh ở Thái Bình (khu vực Sơn Tây, Vĩnh Phúc ngày nay). Nhưng Ngô Xương Văn bất ngờ dẫn quân trở về tấn công và bắt được Dương Tam Kha.
Vì biết ơn Dương Tam Kha đã nuôi mình nên Ngô Xương Văn không giết mà giáng ông ta xuống làm Chương Dương sứ.
Ngô Xương Văn lên ngôi xưng là Nam Tấn Vương, đóng đô ở Cổ Loa. Năm 951, ông cho gọi anh mình là Ngô Xương Ngập về cùng làm Vua với mình gọi là Thiên Sách Vương, phu nhân Phạm Thị Uy Duyên cũng sinh được người con trai là Ngô Xương Xí.
Được sự đồng ý của Thái hậu họ Dương, hai anh em cùng hợp sức nhằm ổn định Giang Sơn bất ổn sau khi Dương Tam Kha cướp ngôi. Một nước có 2 Vua, đây là điều lạ lùng xuất hiện trong sử Việt.
Hai anh em cùng làm Vua, tuy nhiên Ngô Xương Ngập dần dần lấn át em mình là Xương Văn, không cho quyết định các việc chính sự, rồi có ý muốn loại bỏ em mình nhằm độc chiếm ngai vàng.
Nhằm giữ hòa khí, Ngô Xương Văn đồng ý rút lui một số việc triều chính để anh mình tự quyết, việc này dẫn đến Triều đình suy yếu thêm.
Tuy nhiên Ngộ Xương Ngập làm Vua chỉ 3 năm, đến năm 954 thì bị bệnh rồi mất, để lại hai người con là Ngô Chân Lưu và Ngô Xương Xí.
Chỉ còn lại Ngô Xương Văn trị quốc, ông cùng với con rể là Đinh Liễn (con trai Đinh Bộ Lĩnh) thu phục được nhiều Sứ quân. Năm 965, Ngô Xương Văn cùng Đinh Liễn đưa quân tấn công Sứ quân Nguyễn Khoan, Ngô Xương Văn không may bị trúng loạn tên tử trận.
Ngô Xương Văn mất, một số tướng làm loạn muốn xưng Vương, Đinh Liễn cầm quân dẹp loạn đưa con của Ngô Xương Ngập là Ngô Xương Xí lên kế vị. Đinh Liễn đưa quân trở về Hoa Lư theo cha mình là Đinh Bộ Lĩnh.
Ngô Xương Xí lên ngôi khi chưa đến 20 tuổi, Đinh Liễn rời đi trong khi xung quanh không có tướng tài nên ông khó đối đầu với các Sứ quân khác, phải rời Cổ Loa đến thành Bình Kiều (thuộc tỉnh Thanh Hóa) trở thành một Sứ quân.
Ngô Xương Ngập còn có người con trai cả là Ngô Xương Tỷ sinh năm 933, là cháu đích tôn của Ngô Quyền, nổi tiếng khôi ngô đĩnh ngộ.
Khi Ngô Xương Ngập chạy trốn trước sự truy sát của Dương Tam Kha, để bảo vệ đã đổi tên Ngô Xương Tỷ thành Ngô Chân Lưu, rồi nương nhờ cửa Phật ở chùa Khai Quốc (nay là chùa Trấn Quốc, Hà Nội).
Ngô Chân Lưu học Phật Pháp rất tinh tấn, thông tuệ hơn người, ông không tham dự vào các cuộc tranh gianh ở Triều đình của cha mình.
Năm 968, Đinh Bộ Lĩnh thống nhất các Sứ quân, lên ngôi Vua, lấy hiệu là Đinh Tiên Hoàng. Lúc này danh tiếng Thiền sư Ngô Chân Lưu đã vang xa.
Vua Đinh rất xem trọng các Thiền sư, Ngô Chân Lưu được ban hiệu Khuông Việt đại sư, được mời tham dự triều chính. Vua rất xem trọng lắng nghe lời của ông, dùng Phật Pháp trị quốc mà giúp Xã Tắc dần ổn định sau nội chiến 12 Sứ quân.
Dưới thời vua Lê Đại Hành, năm 981 nhà Tống cử Hầu Nhân Bảo đưa quân tiến đánh Đại Cồ Việt. Thiền sư Khuông Việt đã đến Bình Lỗ chuẩn bị một thế trận đánh quân Tống.
Vua Lê Đại Hành cầm quân chặn quân Tống rồi rút chạy đến Bình Lỗ. Chủ tướng Hầu Nhân Bảo cho quân đuổi theo đến Bình Lỗ thì bị vây chặt trong thế trận được chuẩn bị từ trước. Hầu Nhân Bảo tử trận, các cánh quân Tống nghe tin chủ tướng tử trận thì kinh hoàng rút về nước.
Sau chiến thắng, quan hệ Tống – Việt trở nên căng thẳng, nhà Tống cử sứ sang nhằm thăm dò Đại Cồ Việt, vua đã cử Thiền sư Khuông Việt cùng Pháp Thuận tiếp sứ.
Khuông Việt đại sư giúp hồng dương Phật Pháp, dùng Phật Pháp giáo hóa muôn dân, giúp Xã Tắc ổn định, thiên hạ thái bình. Ông đặt nền móng vững chắc cho Phật giáo phát triển huy hoàng vào thời nhà Lý. Đệ tử tiếp bước ông là Đa Bảo, một trong những người có ảnh hưởng lớn đến việc lên ngôi của Lý Công Uẩn.
Trần Hưng
Xem thêm:
Mời xem video:
Từ tháng 6, nhiều quán bún, phở, bánh mì tại Hà Nội đồng loạt điều…
Thị trường chứng khoán đã nhích nhẹ, bất chấp việc Tổng thống Trump có kế…
Tổng thống Trump phát biểu rằng chính phủ sẽ tìm cách áp dụng án tử…
Tổng thống Mỹ Donald Trump cho biết công ty công nghệ Meta Platforms Inc. có…
Một vị sư Thái Lan từng được ca ngợi là nhân vật tiên phong trong…
Khoáng sản chiến lược là ưu tiên chung của Ấn Độ và Nhật Bản, liên…