Hai vị Bảng nhãn được phong Thánh ở Hà Tĩnh

Trong lịch sử khoa bảng, những người đỗ đại khoa đa số là ở khu vực Kinh thành và tứ trấn xung quanh, nơi có điều kiện học tập tốt hơn. Trong khi đó ở nơi khác số lượng người thi đỗ thấp hơn nhiều. Tuy nhiên người dân Hà Tĩnh cũng tự hào khi có được hai vị Bảng nhãn góp công xây dựng quê hương bản quán, cả hai đều được phong làm Thành Hoàng của làng.

(Tranh minh họa: Họa sĩ Sỹ Hòa, Báo Bình Phước Online)

Ở đợ vẫn thi đỗ Bảng nhãn

Vào thế kỷ 15 thời Lê Sơ, ở làng Thần Đầu, huyện Kỳ Hoa, phủ Hà Hoa, xứ Nghệ An (nay là xã Kỳ Phương, huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh) có hai anh em Lê Quảng Chí và Lê Quảng ý gia cảnh rất nghèo khó, hai anh em phải đi ở đợ cho nhà giàu, cuộc sống vất vả.

Theo gia phả dòng họ thì dù phải đi ở đợ nhưng cả hai anh em đều hiếu học, lại được trời phú cho tư chất thông minh. Sau khi làm hết các việc của gia chủ, đến tối hai anh em bắt đom đóm bỏ vào lọ thủy tinh làm đèn học.

Có hôm tối đến đói quá, phải vừa học vừa đùa vui để quên đi cơn đói, Quảng Chí ra câu đối “sáng khoai, trưa khoai, khoai một rổ”, người em cũng ứng khẩu lại “anh đậu, em đậu, đậu một tràng”.

Đến khoa thi năm 1478, Lê Quảng Chí đăng ký dự thi, vượt qua tất cả các trường thi, vào đến kỳ thi cuối cùng là thi Đình. Lê Quảng Chí xuất sắc vượt trên các sĩ tử đến từ Kinh thành và vùng tứ trấn để đỗ đầu. Do khoa thi này không có Trạng nguyên nên ông đỗ Bảng nhãn.

Đến khoa thi năm 1499 thì người em là Lê Quảng Ý đỗ tiến sĩ thời vua Lê Hiến Tông.

Lê Quảng Chí làm quan đến Tả thị lang bộ Lễ kiêm Đông các Đại học sĩ, ông là người văn võ kiêm toàn, nhiều lần vâng mệnh Vua cầm quân đi đánh giặc.

Lê Quảng Ý làm đến Hàn lâm viện thị thế, Đặc tiến kim tử vinh lộc đại phu hiến sứ, kiêm Đệ lĩnh tú thành quân vụ, tước Bảng quận công.

Hai anh em đều tài giỏi lại cương nghị, để lại nhiều tác phẩm văn học có giá trị, đặc biệt là là 5 bài thơ nổi tiếng.

Sau khi hai anh em mất, người dân ở quê nhà làng Thần Đầu tưởng nhớ lập đền thờ hai anh em và gọi là Thánh Trạng.

Sau này người dân làng Thần Đầu tưởng nhớ hai anh em, thường bảo nhau rằng hai hòn núi Đụn đứng song song trong làng, hòn cao là anh, hòn thấp là em, và gọi hai hòn này là “nguy nga song bút”.

Cháu nội của Trần Nguyên Hãn

Theo gia phả và di chỉ của dòng họ thì Trần Nguyên Hãn có người con trai thứ là Pháp Độ công, là bậc hiền thần, làm quan đến chức Thiết chế Lễ tướng công tại bộ Lễ. Nhưng vì ông là con trai của Trần Nguyên Hãn nên bị Triều đình nghi kỵ, phải từ quan về hưu vào năm 1474 khi mới 51 tuổi.

Không chỉ từ quan, ông cũng phải rời Kinh thành, đưa vợ cùng 3 người con trai đến Thanh Hóa. Sau ông để vợ cùng một người con ở lại, rồi cùng hai con trai đến Nghệ An. Pháp Độ công đi lại giữa Thanh Hóa và Nghệ An, đồng thời giấu kín tung tích là hậu duệ của Trần Nguyên Hãn.

Một lần Pháp Độ công đến ngôi chùa ở làng Khải Mông thuộc Hà Tĩnh. Tại ngôi chùa ông gặp và quen biết một gia đình hào phú sùng bái Phật. Do mến mộ tài đức của ông mà gia đình này đã gả cô con gái cho. Năm 1483 ông và người vợ thứ sinh hạ được người con trai và đặt tên là Trần Bảo Tín. Sau 4 năm thì ông dời về lại Nghệ An, Bảo Tín lớn lên ở làng Khải Mông quê ngoại.

Trần Bảo Tín rất thông minh, lại được gia đình bên ngoại vốn là hào phú chăm sóc nên có điều kiện học hành thành tài. Đến khoa thi năm 1511 thời vua Lê Tương Dực, Trần Bảo Tín qua kỳ thi Hương, lại vượt qua tứ trường kỳ thi Hội.

Vào đến thi Đình, Trần Bảo Tín làm bài văn sách xuất sắc, đỗ cao thứ hai tức Bảng nhãn. Đại Việt Sử ký Toàn thư có chép rằng:

“Năm Tân Mùi – 1511 tháng 3, thi Hội các sĩ nhân trong nước đến thi Đình, vua thân hành xem bài thi rồi định bậc cao thấp. Cho bọn Hoàng Nghĩa Phú, Trần Bảo Tín, Vũ Duy Chu 3 người đỗ Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ”.

Trần Bảo Tín làm quan đến chức Lại bộ Tả thị lang. Tuy nhiên lúc này nhà Lê Sơ đã đi vào mạt, các tướng lập cát cứ khiến chiến loạn khắp nơi, vì thế mà Trần Bảo Tín làm quan nhưng không phát huy được được khả năng của mình.

Năm 1527 thì nhà Mạc cướp ngôi nhà Lê, Trần Bảo Tín từ quan về lại quê nhà. Ông cùng dân lập chiến Lũy không cho quân Mạc xuống phía nam, tránh được việc phu phen lao dịch, dân chúng được yên bình.

Ông cũng giúp dân lập trang trại, khai khẩn ruộng hoang, đắp đường mở chợ, mở trường học và nơi chữa bệnh giúp dân chúng.

Sau khi Trần Bảo Tín mất, dân làng lập đền thờ ông ở núi Hồng Lĩnh, gọi ông là Thánh Bảng, phong ông là Thành Hoàng của làng.

Trần Hưng

Xem thêm:

Mời xem video “Trọng tâm của giáo dục không phải nằm ở tri thức”:

Trần Hưng

Published by
Trần Hưng
Tags: khoa bảng

Recent Posts

Tấn công khủng bố tại giáo đường Do Thái ở Anh gây nhiều thương vong

Cảnh sát đã tuyên bố đây là một vụ khủng bố khi một người đàn…

5 giờ ago

Nữ doanh nhân Hoàng Hường bị khởi tố và bắt tạm giam

Bà Hường đã để ngoài sổ sách kế toán doanh thu gần 1.800 tỷ đồng,…

7 giờ ago

Tin di trú 4.10: Cơ sở ICE Portland bị tấn công liên tiếp trong hơn 100 đêm

Tổng hợp các bản tin về những câu chuyện thời sự quan trọng liên quan…

7 giờ ago

Ông Bessent: Chính phủ đóng cửa có thể gây tổn hại đến tăng trưởng kinh tế của Mỹ

Bộ trưởng Tài chính Mỹ Scott Bessent cảnh báo, việc chính phủ đóng cửa có…

9 giờ ago

Giáo sư drag queen sẽ dạy dân tộc học giới tính phi truyền thống (queer) tại Harvard

Kế hoạch của Đại học Harvard mời một giáo sư drag queen thỉnh giảng để…

9 giờ ago

Nhà Trắng yêu cầu các trường đại học cam kết cải cách để nhận trợ cấp liên bang

Bản ghi nhớ ‘Thỏa thuận Xuất sắc Học thuật trong Giáo dục Đại học’ thể…

9 giờ ago