Trước khi đề cập đến thành phần giáo chức thời Đệ nhất Cộng hòa, xin trình bày sơ lược về chế độ ngạch trật và lương bổng dành cho các thành phần công chức nói chung.
A – Vấn đề ngạch trật
Vào những năm 1954-1963 (và cho đến hết thời Đệ nhị Cộng hòa) tại miền Nam, chế độ lương bổng dành cho các tầng lớp công chức khá ổn định và hài hòa ở hầu hết các ngành nghề, các lãnh vực khác nhau. Công chức thời ấy có hai thành phần chính: chính ngạch và ngoại ngạch.
Công chức chính ngạch: Thường là những người được đào tạo ở các trường chính quy và được chia làm ba hạng chính:
Công chức ngoại ngạch: Thường được tuyển dụng thông qua các hợp đồng lao động và gồm các hạng:
– B1: Dành cho những người có bằng Tú tài 1, Tú tài 2 trở lên nhưng chưa tốt nghiệp đại học
– B2: Dành cho những người có bằng Trung học Đệ nhất cấp đến Tú Tài I
– B3: Dành cho những người có trình độ Trung học, nhưng chưa có bằng Trung học Đệ nhất cấp
Ở hạng chính ngạch, các thành phần công chức hạng A gồm: bác sĩ, kiến trúc sư, luật sư, thẩm phán tòa án, giáo sư đại học, giáo sư Trung học Đệ nhị cấp, Đốc sự Hành chánh (tốt nghiệp Học viện Quốc Gia Hành Chánh), Kỹ sư (các ngành Công chánh, Kiến thiết, Điện, Nông Lâm Súc…)… Ở thành phần ngoại ngạch hạng A, thường không có chế độ công nhật, chỉ có chế độ khế ước, ký kết giữa người lao động và cơ quan sử dụng (trường Đại học, bệnh viện công…)
Ở hạng B, thành phần chính ngạch được phân biệt theo các hạng B1, B2 và B3 của nhân viên ngoại ngạch
Ở hạng C, gồm chủ yếu ngạch Tùy phái, Tống thơ văn.
Ở hạng D gồm các lao công, không có chính ngạch, thường lao động dưới dạng “phù động đồng hóa công nhật”, được hưởng lương công nhật.
Ở mỗi hạng công chức, cần phân biệt rõ hai yếu tố “ngạch” và “trật”. Ngạch là tên gọi chung, ví dụ: Kỹ sư, Đốc sự Hành chánh , Cán sự Y tế …; Trật là những bậc khác nhau, được sắp xếp từ thấp đến cao trong khuôn khổ một ngạch, ví dụ “kỹ sư hạng ba, kỹ sư hạng nhì, kỹ sư hạng nhất …” là các trật của ngạch Kỹ sư.
B – Vấn đề lương bổng
Thời Đệ nhất Cộng hòa (và cho đến hết thời Đệ nhị Cộng hòa), chỉ số lương là yếu tố cơ bản trong lương bổng của người công chức. Chỉ số lương này nhân với chỉ số đắt đỏ của từng thời kỳ thành lương căn bản. Trong 9 năm đầu (1954-1963), chỉ số lương hầu như không thay đổi ở hầu hết các ngành nghề, nếu có thay đổi, cũng chỉ là những điều chỉnh tối thiểu. Mỗi ngạch trật có một thang chỉ số lương từ trật thấp nhất đến trật cao nhất mà người công chức thời ấy thường gọi là “plafond” (tột trần).
– Tương đương hạng B1: Chỉ số lương từ 320 đến tối đa 740 – 79
– Tương đương hạng B2: Chỉ số lương từ 250
– Tương đương hạng B3: Chỉ số lương từ 220
Các loại phụ cấp ngoài lương: Bên cạnh lương căn bản, người công chức thời Đệ nhất Cộng hòa được hưởng nhiều khoản phụ cấp khác nhau, có thể kể:
Một ví dụ cụ thể:
Những chi tiết ở phần I áp dụng chung cho mọi thành phần công chức, trong đó có các giáo chức làm việc trong guồng máy giáo dục. Thời Đệ nhất Cộng hòa, giáo chức chính ngạch gồm các thành phần chính sau:
Đối với các giáo sư Trung học Đệ nhất cấp, Đệ nhị cấp, Giáo học bổ túc và giáo viên Tiểu học, trong phần lớn thời kỳ đầu của Đệ nhất Cộng hòa, cả miền Nam có ba trường đào tạo chính:
Hai trường trên đào tạo giáo sư trung học, nhiều nhất là trung học đệ nhị cấp, dạy đến lớp Đệ nhất (nay là lớp 12). Trường thứ ba đào tạo giáo học bổ túc và giáo viên Tiểu học, đáp ứng nhu cầu giáo dục tiểu học của toàn miền Nam, từ vĩ tuyến 17 trở xuống.
Với thành phần giáo chức tư thục, qui định thời đó dành cho bậc Tiểu học là phải có ít nhất bằng Tiểu học, dạy bậc Trung học Đệ nhất cấp phải có tối thiểu bằng Trung học Đệ nhất cấp, dạy bậc Trung học Đệ nhị cấp phải có bằng Tú Tài II trở lên. Ở bậc Trung học Đệ nhất cấp, những người có bằng Trung học Đệ nhất cấp thường được phân công dạy các lớp thấp như Đệ thất, Đệ lục (lớp 6, lớp 7), các lớp Đệ ngũ, Đệ tứ (lớp 8, lớp 9) dành cho người có bằng Tú tài. Người viết bài này từng chứng kiến hiện tượng có trường tư thục vì thiếu giáo sư, đã tuyển người có khả năng giảng dạy nhưng không có điều kiện về bằng cấp qui định, đến cuối niên khóa, khi làm sổ Học bạ cho học sinh, phải thay tên người dạy thực sự bằng tên người khác có đủ điều kiện về văn bằng. Ở bậc Trung học Đệ nhị cấp, ngoài các giáo chức chuyên nghiệp có tiếng, các trường tư thục còn sử dụng sinh viên đang học mấy năm cuối cùng bậc Đại học, nhất là sinh viên Đại học Sư phạm và Đại học Khoa học.
Những năm 1954-1963, số giáo sư Trung học Đệ nhị cấp rất thiếu, mặt khác, số trường trung học công lập dạy đến hết lớp Đệ nhất không phải tỉnh nào cũng có, vì thế số sinh viên tốt nghiệp trường Đại học Sư phạm được đưa về các tỉnh lớn để điền khuyết nhân số còn thiếu, ở tỉnh Gia Định có trường Hồ Ngọc Cẩn, tỉnh Định Tường (Mỹ Tho) có trường Nguyễn Đình Chiểu, tỉnh Phong Dinh (Cần Thơ) có trường Phan Thanh Giản, tỉnh Khánh Hòa (Nha Trang) có trường Võ Tánh, tỉnh Bình Định (Qui Nhơn) có trường Cường Để … một số học sinh Đệ nhị cấp ở các tỉnh nhỏ phải đi qua tỉnh lớn để học. Giáo viên Tiểu học tốt nghiệp trường Quốc gia Sư phạm được phân bổ xuống tới các trường Tiểu học cấp Quận. Sang nửa sau thập niên 1960, các trường Tiểu học cấp xã được bồ sung một thành phần giáo chức đặc biệt là “giáo viên ấp tân sinh”, gánh nặng giáo dục trên vai các giáo viên Tiểu học công lập mới nhẹ bớt.
Thời Đệ nhất Cộng hòa, các giáo sư đại học là một thành phần xã hội ở trên cao, cách biệt rất lớn với hàng ngũ giáo chức trung, tiểu học và sinh viên đại học. Thời đó, số cư dân có xe gắn máy không nhiều, vậy mà hầu hết các giáo sư đại học đều đi dạy bằng ô tô. Điều đó không khó hiểu, vì khi còn là sinh viên du học nước ngoài, phần lớn họ đã sinh trưởng trong các gia đình thượng lưu, họa hoằn lắm mới có người ngoi lên từ giai cấp trung hay hạ lưu. Trong khuôn khổ ngành Đại học theo chế độ tự trị, các giáo sư đại học lúc bấy giờ toàn tâm toàn ý cho công cuộc giáo dục, đào tạo thế hệ trí thức tương lai, mà không hề chịu một sức ép nào, về kinh tế cũng như về chính trị. Trong suốt thời VNCH, nhiều giáo sư đại học được mời tham gia chính phủ trong cương vị Tổng, Bộ trưởng, thời Đệ nhất Cộng hòa có: Vũ Quốc Thông (Bộ trưởng Y tế) Vũ Văn Mẫu (Bộ trưởng Ngoại giao), Nguyễn Quang Trình (Bộ trưởng Giáo dục)…; thời Đệ nhị Cộng hòa có: Nguyễn Văn Tương (Phủ Đặc ủy Hành chánh, tương đương Bộ trưởng Nội vụ), Trần Văn Kiện (Ủy viên Tài chánh, tương đương Bộ trưởng Tài chánh), Nguyễn Duy Xuân (Bộ trưởng Kinh Tế), Vương Văn Bắc (Bộ trưởng Ngoại giao)… Riêng luật sư, giáo sư Vương Văn Bắc, với cương vị Ngoại trưởng những năm cuối của nền Đệ nhị Cộng hòa miền Nam, ông rất thành công qua việc thiết lập bang giao với nhiều nước châu Phi và là người khởi đầu việc đàm phán khai thác dầu khí với các nước sản xuất dầu hỏa ở Trung Đông. Ông là tiêu biểu của giới trí thức trẻ đầy năng lực của miền Nam, tri thức rộng, dạy học hay, làm chính trị nhiều sáng kiến và thành công. Riêng người viết bài này luôn say mê những giờ Chính trị học của ông tại giảng đường Học viện Quốc gia Hành chánh những năm 1962-1963, một kỷ niệm khó quên của thời đi học.
Kỳ sau: Thi cử thời Đệ nhất Cộng hòa
Xem lại:
Nhà nghiên cứu lịch sử Lê Nguyễn
Đăng lại có chỉnh sửa từ báo Trí Việt News, độc giả quan tâm có thể tham khảo tại triviet.news
Xem thêm:
Mời xem video:
Cảnh sát Nhật Bản cho biết đã nộp đơn xin lệnh bắt giữ một thiếu…
Các đại biểu đồng thuận cho rằng máy điều hòa không phải mặt hàng xa…
Tối 20/11 một vụ đâm chém người đã xảy ra tại ký túc xá của…
Bộ Tài chính đang đề nghị xây dựng dự án nghị quyết của Quốc hội…
Trước bước tiến vững chắc của quân Nga, BBC chỉ ra trong một bài phân…
Gần 150 bộ hài cốt được phát hiện khi công nhân thi công cải tạo…