Lăng Tự Đức – Kiến trúc độc đáo bậc nhất dưới triều Nguyễn

Lăng Tự Đức nằm trong một thung lũng hẹp thuộc làng Dương Xuân Thượng, tổng Cư Chánh cũ, nay là thôn Thượng Ba, phường Thủy Xuân, thành phố Huế. Lăng thờ vua Tự Đức, đời vua thứ 4 của triều nhà Nguyễn. Ông trị vì 36 năm, từ 1847-1883.

Lúc mới xây dựng, lăng có tên là Vạn Niên Cơ. Sau cuộc nổi loạn của những người xây dựng lăng, vua Tự Đức nhận ra sai lầm của bản thân, bèn đổi tên thành Khiêm Cung. Sau khi vua Tự Đức băng hà, lăng được đổi tên thành Khiêm Lăng. Lăng Tự Đức có kiến trúc cầu kỳ, phong cảnh sơn thủy hữu tình và là một trong những lăng tẩm đẹp nhất của vua chúa nhà Nguyễn.

Toàn cảnh lăng Tự Đức. (Ảnh: Nguyen Quang Ngoc Tonkin, Shutterstock)

Quần thể lăng được chia thành 2 khu vực: tẩm điện và lăng mộ. Khu vực tẩm điện từ cửa Vụ Khiêm đi qua trước khiêm Cung Môn rồi uốn lượn quanh co ở phía trước lăng mộ. Qua khỏi cửa Vụ Khiêm và miếu thờ sơn thần là khu điện thờ, nơi trước đây là chỗ nghỉ ngơi, giải trí của vua.

Vua Tự Đức đã sớm nghĩ đến việc xây lăng mộ cho mình ngay khi còn sống. Vốn là một người giỏi thi phú, ông đã chọn cho mình một nơi yên nghỉ xứng đáng với ngôi vị của mình, địa điểm được chọn để xây lăng trong một thung lũng hẹp thuộc làng Dương Xuân Thượng, tổng Cư Chánh.

Khi mới khởi công xây dựng, vua Tự Đức lấy tên Vạn Niên Cơ đặt tên cho công trình, với mong muốn được trường tồn. Tuy nhiên, công việc sưu dịch xây lăng quá cực khổ khiến dân phu xây lăng bất mãn.

Ngày 8-9 âm lịch năm 1866, tức năm Tự Đức thứ 19, do việc xây dựng Vạn niên cơ, quân sĩ và dân phu phải làm lụng khổ sở, có nhiều người oán giận. Nhân sự bất mãn đó, với lý do tôn phù Đinh Đạo – cháu ruột Tự Đức – lên ngôi vua, Đoàn Hữu Trưng cùng với các em phát động cuộc nổi loạn. Tuy nhiên, cuộc đảo chính thất bại.

Sau sự việc này, hối hận vì sai lầm của mình, vua đổi tên Vạn niên cơ thành Khiêm Cung và viết bài biểu trần tình. Năm 1873, Khiêm Cung mới được hoàn thành, vua Tự Đức vẫn sống thêm 10 năm nữa rồi mới qua đời.

Hồ Lưu Khiêm. (Ảnh: Hien Phung Thu, Shutterstock)

Gần 50 công trình trong lăng ở cả hai khu vực tẩm điện và lăng mộ đều có chữ Khiêm trong tên gọi. Lối đi lát gạch Bát Tràng bắt đầu từ cửa Vụ Khiêm đi qua trước Khiêm Cung Môn rồi uốn lượn quanh co ở phía trước lăng mộ. Qua khỏi cửa Vụ Khiêm và miếu thờ Sơn Thần là khu điện thờ, nơi trước đây là chỗ nghỉ ngơi, giải trí của vua. Đầu tiên là Chí Khiêm Đường ở phía trái, nơi thờ các bà vợ vua. Tiếp đến là 3 dãy tam cấp bằng đá Thanh dẫn vào Khiêm Cung Môn – một công trình hai tầng dạng vọng lâu như một thế đối đầu tiên với hồ Lưu Khiêm ở đằng trước. Giữa hồ có đảo Tịnh Khiêm với những mảnh đất trồng hoa và những hang nhỏ để nuôi thú hiếm. Trên hồ Lưu Khiêm có Xung Khiêm Tạ và Dũ Khiêm Tạ, nơi nhà vua đến ngắm hoa, làm thơ, đọc sách… Ba cây cầu Tuần Khiêm, Tiễn Khiêm và Do Khiêm bắt qua hồ dẫn đến đồi thông.

Xung Khiêm tạ. (Ảnh: Dalbera, Flickr, CC BY 2.0)
Dũ Khiêm tạ và Khiêm Cung môn. (Ảnh: Nowic, Wikipedia, CC BY-SA 3.0)

Bên trong Khiêm Cung Môn là khu vực dành cho vua nghỉ ngơi mỗi khi đến đây. Chính giữa là điện Hòa Khiêm để vua làm việc, nay là nơi thờ cúng bài vị của vua và Hoàng hậu. Hai bên tả, hữu là Pháp Khiêm Vu và Lễ Khiêm Vu dành cho các quan văn võ theo hầu. Sau điện Hòa Khiêm là điện Lương Khiêm, xưa là chỗ nghỉ ngơi của vua, về sau được dùng để thờ vong linh bà Từ Dụ, mẹ vua Tự Đức. Bên phải điện Lương Khiêm là Ôn Khiêm Đường – nơi cất đồ ngự dụng. Đặc biệt, phía trái điện Lương Khiêm có nhà hát Minh Khiêm để nhà vua xem hát, được coi là một trong những nhà hát cổ nhất của Việt Nam hiện còn. Có một hành lang từ điện Ôn Khiêm dẫn ra Trì Khiêm Viện và Y Khiêm Viện là chỗ ở của các cung phi theo hầu nhà vua, ngay cả khi vua còn sống cũng như khi vua đã chết. Cạnh đó là Tùng Khiêm Viện, Dung Khiêm Viện và vườn nuôi nai của vua.

Điện Lương Khiêm, nơi thờ Thái hậu Từ Dụ. (Ảnh: Barrysphere, Wikipedia, CC BY-SA 4.0)
Điện Hòa Khiêm, chính tẩm thờ vua Tự Đức. (Ảnh: Qiv, Flickr, CC BY-SA 2.0)

Sau khu vực tẩm điện là khu lăng mộ. Ngay sau Bái Đình với hai hàng tượng quan viên văn võ là Bi Đình với tấm bia bằng đá Thanh Hóa nặng 20 tấn có khắc bài “Khiêm Cung Ký” do chính Tự Đức soạn. Tuy có đến 103 bà vợ nhưng Tự Đức không có con nối dõi nên đã viết bài văn bia này thay cho bia “Thánh đức thần công” trong các lăng khác. Toàn bài văn dài 4.935 chữ, là một bản tự thuật của nhà vua về cuộc đời, vương nghiệp cũng như những rủi ro, bệnh tật của mình, kể công và nhận tội của Tự Đức trước lịch sử. Đằng sau tấm bia là hai trụ biểu sừng sững như hai ngọn đuốc tỏa sáng cùng với hồ Tiểu Khiêm hình trăng non đựng nước mưa để linh hồn vua rửa tội.

Nhà bia, nơi chứa tấm bia khắc “Khiêm Cung Ký”. (Ảnh: Bùi Thụy Đào Nguyên, Wikipedia, CC BY-SA 4.0)

Lê Nguyên tổng hợp

Xem thêm:

Mời xem video:

Lê Nguyên

Published by
Lê Nguyên

Recent Posts

SoftBank Group đầu tư tới 40 tỷ USD vào OpenAI

Hôm 1/4, SoftBank Group thông báo sẽ đầu tư tới 40 tỷ USD vào công…

41 phút ago

Nhà Trắng và Châu Âu phản ứng trước cuộc tập trận lớn của ĐCSTQ quanh Đài Loan

Trung Quốc tuyên bố bắt đầu tổ chức các cuộc tập trận quân sự chung…

59 phút ago

Ông Trump “không nói đùa” khi đề cập khả năng làm tổng thống nhiệm kỳ ba

Ông Donald Trump tuyên bố rằng ông “không nói đùa” khi đề cập đến khả…

1 giờ ago

TQ: Bệnh viện ung thư ở Bắc Kinh, Thượng Hải và những nơi khác quá tải

Các bệnh viện ung thư ở Bắc Kinh, Thượng Hải và nhiều nơi khác ở…

1 giờ ago

Đã từng và sẽ có một trận chiến trên thiên đàng

"Số phận của các thiên thần nổi loạn" là một kiệt tác hội họa mô…

1 giờ ago

Vì sao phòng đọc sách thời xưa thường được gọi là thư trai?

Thư phòng là nơi khởi điểm trên con đường theo đuổi sự nghiệp làm quan…

1 giờ ago