Số lượng cống thuế hàng năm dưới thời nhà Minh đô hộ nước ta
Sách An Nam Chí Nguyên [安南志原] đời Minh, tại quyển 2, mục Cống phú [cống thuế] chép khá chi tiết về sản phẩm và tiền bạc phải nạp cho Trung Quốc hàng năm. Sử liệu giúp cho người đọc thấy được cụ thể dã tâm bóc lột tại nước ta, quan lại thu thuế xuống tận các địa phương, dương cặp mắt cú vọ săm soi tước đoạt đủ mọi sản phẩm thuộc các ngành nghề.
Chúng vơ vét bằng đủ loại tiền: tiền đồng, tiền giấy, và một loại tiền khác đặc biệt phát hành thời Minh gọi là “Bảo tiền” mà người mình quen gọi là tiền quí, hay tiền tốt. Ngoài ra đứng về lĩnh vực nghiên cứu, những số liệu thuế nộp tại trung ương và các phủ, châu; cho phép ta hình dung được tình hình kinh tế nước nhà vào đầu thế kỷ thứ 15.
Cao Hùng Trưng, tác giả An Nam Chí Nguyên, phân biệt 3 cơ quan chính phụ trách về cống thuế: thứ nhất các công trường; thứ hai là trung ương; thứ ba tại các phủ, châu. Lấy năm Vĩnh Lạc thứ 15 [1417] làm chuẩn, tác giả trình bày như sau:
1. Sản phẩm sản xuất từ công trường
Những sản phẩm sản xuất từ các công trường như vàng, bạc, muối, v.v. và các đồn điền, thường do hoạn quan như Sơn Thọ, Mã Kỳ, được vua gửi đến; cùng các quan phụ trách trưng thu đưa thẳng về Trung Quốc. Tác giả không có số lượng, chỉ mô tả một cách tổng quát như sau:
Lấy năm Vĩnh Lạc thứ 15 [1417] làm chuẩn, các thứ như vàng, bạc, hương liệu, sản xuất từ các công trường, thì đã có điển lệ trưng thu; mỗi năm do nội quan (1), cùng quan tam ty (2), hay Đề đốc quân dân cùng quyết định trưng thu, nên không có định số; rồi hội đồng niêm phong, sai người tiến cống; số này không thuộc loại ngạch các phủ huyện liệu biện hàng năm nên không đăng tải số lượng.
Tuy nhiên qua danh sách về các cơ quan phụ trách về muối trích dẫn dưới đây, có thể hình dung được cơ ngơi rất lớn:
Ty muối công trường An Hòa tại huyện Thủy Đường, phủ Tân An.
Ty muối công trường Chi Phong tại huyện Chi Phong phủ Tân An.
Ty muối công trường An Lão tại huyện An Lão phủ Tân An.
Ty muối công trường Đại Hoàng tại huyện Hoàng Sơ phủ Kiến Xương.
Ty muối công trường Quảng Từ tại huyện An Ninh phủ Kiến Bình.
Ty muối công trường Châu Hiệp tại huyện Cửu Hoàng phủ Thanh Hóa.
Ty muối công trường Hoàng Phúc tại huyện Hoàng Phúc phủ Nghệ An.
Ty muối công trường Nam Giới tại huyện Phi Lộc phủ Nghệ An.
Ty muối công trường Thiên Đông tại Diễn châu.
(An Nam Chí Nguyên quyển 2)
Hoặc văn bản ngày 22 tháng 8 năm Vĩnh Lạc thứ 7 [11/9/1419] về việc lập các cục khai thác vàng tại nước ta như sau:
Lập các cục mỏ vàng tại Giao Chỉ; thuộc trấn Thất Nguyên phủ Lạng Sơn, trấn Qui Hóa phủ Tam Giang, trấn Tuyên Quang phủ Tuyên Hóa. Đặt 2 viên Đại sứ, 4 viên Phó sứ.
(Minh Thực Lục v. 14, tr. 2152; Thái Tông q.215, tr.1b)
2. Thuế do trung ương thu
Tại trung ương do Tam ty tức ty Bố chánh, ty Án sát, và Đô chỉ huy sứ ty đảm trách; thành trì Tam Ty tại góc sông Tô Lịch và sông Hồng thành phố Hà Nội ngày nay. Riêng năm 1417 số lượng thuế thu về như sau:
Thúy bì(3): 2.000 cái.
Quạt giấy: 10.000 cái.
Sơn sống: 3.350 cân , 9 lượng rưỡi.
Phèn sống: 500 cân.
Số ruộng đất, ao hồ của quan dân gồm 17.442 khoảnh 34 mẫu 5 phân 6 ly. Lương thực gạo nạp vào tiết hè thu là 74.549 thạch (4), 4 thăng, 2 hợp. 6 chước, 5 sao.
Muối: 40.400 đấu, 40 thăng.
Thuế vàng: 573 lượng 8 tiền, 5 phân, 1 ly.
Thuế bạc: 1.712 lượng, 3 phân, 5 ly.
Tơ: 1.229 cân(5), 15 lượng, 1 tiền.
Lương thực gạo nạp vào mùa thu: 3.001 thạch, 8 đấu.
Lúc bấy giờ toàn thể nước ta có 17 phủ 5 châu, nhưng vì châu Thăng Hoa (7) mới lấy lại từ Chiêm Thành, dân chúng chưa yên với nghề nghiệp, nên tạm thời chỉ thu tại các địa phương còn lại, gồm 16 phủ, 5 châu:
3.1. Phủ Giao Châu [ước lượng thuộc Thành phố Hà Nội, tỉnh Hà Tây, Hà Nam ngày nay (8)]
Thúy bì: 50 cái.
Quạt giấy: 1.500 cái.
Sơn sống: 1.695 cân.
Ruộng đất ao hồ của quan dân: 3.316 khoảnh, 26 mẫu, 6 phân, 6 ly. Thuế lương thực hè thu: 16.562 thạch, 4 đấu, 4 thăng, 9 hợp, 5 chước.
2. Tam ty tức 3 ty, gồm: ty Bố chánh, ty Án sát, ty Đô chỉ huy.
3. Thúy bì: lá thuốc giải nhiệt.
4. 1 thạch thời Minh bằng 60 kg; 10 đấu = 1 thạch; 10 thăng= 1 đấu; 10 hợp = 1 thăng; 10 chước = 1 hợp; chước tương đương với môi múc canh.
5. 1 cân = .50 kg; 16 lượng = 1 cân; tiền còn gọi là đồng cân= 1/10 lượng.
6. Tiền quí tức Bảo sao, một loại tiền giấy chỉ phát hành vào thời Minh, bề ngang 20 cm., bề dọc 30 cm.; là loại giấy bạc có kích thước rộng nhất. Bảo sao được gọi là tiền quí, hay tiền tốt; bởi vậy xưa có bài ca dao mô tả việc người nội trợ mang 1 quan tiền tốt đi chợ, bị chồng kiểm soát; bài ca dao với những câu mở đầu như sau:
Một quan tiền tốt mang đi, Nàng mua những gì mà tính chẳng ra?……
7. Phủ Thăng Hoa: thuộc các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi ngày nay. Thời Minh xâm lăng, Chiêm Thành hợp tác với nhà Minh đánh nhà Hồ và chiếm lấy đất này; rồi vào năm 1417 quân Minh lấy lại từ Chiêm Thành. Xin xem bài Phủ, châu, huyện tại Việt Nam đổi thay dưới thời Minh đô hộcủa Hồ Bạch Thảo.