Mỗi một dân tộc, mỗi một quốc gia trên thế giới đều có cách ăn mặc khác nhau. Điều đó là đại biểu cho tính cách, phẩm chất của dân tộc đó, là nét đẹp văn hóa đặc trưng cho mỗi một dân tộc. Từ xưa, ông cha ta đã biết chọn lọc chất liệu để dệt vải, chọn những thứ từ thiên nhiên để nhuộm chúng tạo thành nhiều màu sắc phong phú. Theo chiều dài lịch sử phát triển của đất nước, các trang phục và cách ăn mặc của người Việt đã có những điểm nhấn và thay đổi đáng kể.
Người Việt xưa chú trọng từ cách đi đứng, ăn nói đến trang phục một cách kỹ lưỡng và tinh tế. Bởi người xưa quan niệm làm người phải học từ những thứ tưởng chừng đơn giản nhất như “học ăn, học nói, học gói, học mở”. Họ rất coi trọng việc giáo dục con trẻ từ khi còn nhỏ, tất cả đều phải học một cách cẩn thận và được rèn giũa. Việc vận trang phục của người xưa cũng dựa trên những giá trị đạo đức, lễ tiết của thời bấy giờ.
Người Việt vốn dĩ theo văn hóa Đông phương mang tính lễ giáo cao và sâu sắc, nên ngay từ nhỏ con cái đã được giáo dục từ cái nhỏ nhặt nhất như cách ăn, uống, đi đứng như thế nào cho đúng, mặc trang phục như thế nào và ra sao. Bởi ngoài việc bảo vệ thân thể và ứng phó với thời tiết thì điều này còn thể hiện tính thẩm mỹ và nét văn hóa của chủ thể.
Họ quan niệm cách ăn mặc phản ánh trình độ văn hóa, nội tâm của người mặc và cách giáo dục của gia đình. Nếu một đứa trẻ ăn nói không lễ phép, ăn mặc lôi thôi, lố lăng không phù hợp với lứa tuổi hoặc hoàn cảnh thì sẽ bị đánh giá là đứa trẻ không có giáo dục. Do vậy ngoài việc hướng dẫn, định hướng con trẻ về văn hóa thì việc ăn mặc như thế nào cho đúng cũng được các gia đình Việt Nam xưa đặc biệt coi trọng.
Người Việt xưa thường hay đánh giá tính cách, đạo đức của một người qua cách ăn mặc của họ. Việc mặc không chỉ để cho bản thân mình mà cũng chính là cách để tôn trọng người khác, để người khác nhìn vào và tôn trọng mình.
Ăn mặc nghiêm túc là gọn gàng, sạch sẽ chứ không cứ phải là đồ mới, đồ tốt. Người ăn mặc giản dị là người có “chiều sâu”. Người thích chưng diện rất nhiều khi là người nông cạn, muốn dùng bề ngoài che giấu cái yếu của mình. Cái mặc thể hiện rõ nét văn hóa. Dĩ nhiên, không thể nhìn bề ngoài mà đánh giá được toàn bộ một con người. Nhưng không thể phủ nhận rằng cách ăn mặc của một người phần nào phản ánh được tính cách và bản chất của người đó.
“Đông the, hè đụp”. “ Đi đâu nón cụ quai tơ – Chồng con không có, vất vơ thế này”. Những câu ca dao, tục ngữ trên cho thấy người xưa chú trọng việc ăn mặc nên phải đúng thời tiết, đúng mùa, đúng hoàn cảnh. Trang phục, đầu tóc phải thích hợp với địa điểm và hoàn cảnh. Ăn mặc có mục đích, rõ ràng và hợp lý. Đi lễ, hội hè thì mặc như thế nào, đi làm đồng mặc ra sao, đi học, ở trong nhà hay ra ngoài đường ăn mặc cũng khác nhau… chứ không thể tùy tiện đồ mặc trong nhà lại đi ra ngoài đường hay thích “đảo lộn” muốn mặc ra sao thì mặc. Đặc biệt đến những nơi tôn nghiêm như Đình, Chùa, Nhà thờ… thì càng phải ăn mặc một cách trang nghiêm và lịch sự, thể hiện là người có văn hóa và giáo dục.
Người xưa đặt nặng vấn đề trang phục phải phù hợp với hoàn cảnh đến để ăn vận cho phù hợp. Nếu một người mặc rất đẹp, áo gấm lụa là nhưng lại đặt vào hoàn cảnh không phù hợp thì cũng không toát lên vẻ đẹp thật sự của nó.
Người xưa coi trọng đức hạnh. Họ ăn mặc trang phục rộng rãi để không phô trương cơ thể. Họ quan niệm mặc bó sát người để nổi những bộ phận cơ thể người phụ nữ là không đúng đắn, không đoan trang. Ngoại trừ những công việc đồng áng nặng nhọc, khiến trang phục không được chỉnh tề, hoặc buộc phải xắn quần áo để lội nước… thì ở những trường hợp khác người xưa đều rất chú ý ăn mặc, và thông thường cũng sử dụng quần áo rộng rãi.
Người phụ nữ có chồng sẽ mặc khác với phụ nữ chưa chồng, hay phụ nữ góa chồng cũng mặc khác với phụ nữ đang có chồng. Tuy không phân biệt hay quy định rõ rệt nhưng phụ nữ xưa ý thức về việc ăn mặc cho đúng với hoàn cảnh của mình, họ sẽ không chưng diện quá như thời con gái nếu như đã có chồng hoặc góa chồng. Họ luôn ý thức ăn mặc kín đáo để giữ đạo đức, phẩm hạnh của người phụ nữ. Họ thường mặc những trang phục đơn giản, không chuộng mốt, màu sắc không lòe loẹt… Ấy vậy mà chúng ta vẫn thấy họ đẹp một cách sâu sắc và lạ thường.
Từ trước năm 1945 trang phục của người Việt mang đậm dấu ấn thời kỳ quân chủ truyền thống, được phân biệt theo tầng lớp xã hội. Có những loại vải cao cấp hoặc những màu sắc chỉ có Vua chúa, quan lại và những người trong Hoàng cung mới được mặc. Dân thường chủ yếu mặc đồ bằng vải gai, vải bông, đay, đũi… và các màu nâu, đen, màu của bùn đất, cây cối. Họ mặc áo dài, áo nâu sòng, áo tứ thân, vấn khăn mỏ quạ, đội nón quai thao, nón lá…
Quần áo thời xưa chủ yếu được nhuộm từ vỏ thân cây…do đời sống con người xưa gắn liền với nông nghiệp. Nên quan điểm về ăn mặc của người Việt xưa cũng bị ảnh hưởng và cũng thể hiện tầng lớp xã hội như: nông dân hay trí thức, thương nhân, dân thường hay người của Hoàng tộc.
Có thể nói trang phục, cách phục sức của con người cũng phần nào phản ánh bối cảnh lịch sử mà nó xuất hiện cũng như các quan điểm, nhận thức, văn hóa của xã hội vào thời đó. Các quan điểm và ý thức về cách ăn mặc của người Việt cho đến nay đã có nhiều sự thay đổi.
Ngày nay, trong việc giáo dục con trẻ, nếu người lớn không chú trọng ngay từ đầu từ việc nhỏ như cách ăn mặc của chúng, thì sau này sẽ rất khó để khuyên bảo, và trẻ sẽ bị cuốn thật nhanh vào ý thức của xã hội hiện đại ngày nay. Cha mẹ nên hướng con tới những gì gần với quan điểm truyền thống, văn hóa truyền thống, chọn lựa những trang phục vừa hiện đại nhưng vẫn thể hiện nét đẹp riêng và phù hợp với thuần phong mỹ tục, mỹ cảm dân tộc Việt.
Ngọc Lan
Xem thêm:
Mời xem video:
Ông Trần Quân (John Chen) bị kết án vì cùng đồng phạm hỗ trợ ĐCSTQ…
Các cuộc biểu tình tại Trung Quốc trong quý 3 năm nay đã tăng 27%…
Ngoại trưởng Andrey Sibiga cho biết Ukraine sẽ không chấp thuận nhượng bất kỳ lãnh…
Trong cuốn sách "Dũng tràng tiểu phẩm" của tác giả Chu Quốc Trinh đời nhà…
Đâu đó và ngay đây, vẫn có những người với người vẫn tin và thương…
Đề xuất của Bộ Tư pháp Mỹ yêu cầu Google phải bán trình duyệt Chrome…