Sức Khỏe

Vắc-xin và Tự kỷ: Khi khoa học vẫn còn nhiều khoảng trống

Giống như nhiều bác sĩ khác, tôi đã được dạy từ sớm trong quá trình đào tạo rằng bất kỳ mối liên hệ nào giữa vắc-xin và chứng tự kỷ đều đã bị bác bỏ hoàn toàn — rằng “khoa học đã ngã ngũ” và không còn gì để tranh luận nữa. Tôi đã lặp lại thông điệp đó một cách tự tin trong nhiều năm. Nhưng khi tôi bắt đầu nghiên cứu cho cuốn sách “Between a Shot and a Hard Place” (Tạm dịch: Lựa chọn khó khăn giữa vắc-xin và những nguy cơ), tôi gác lại những giả định và tự mình xem xét dữ liệu một cách khách quan.

(Ảnh: Shutterstock)

Những gì tôi phát hiện ra không hề mang tính trấn an. Không phải là một tập hợp dữ liệu vững chắc đủ để kết thúc tranh luận. Thay vào đó, tôi tìm thấy một số lượng nghiên cứu khá hạn chế với thiết kế hẹp và nhiều lỗ hổng lớn. Là một bác sĩ nhi khoa được chứng nhận hành nghề, từng đào tạo tại các cơ sở y tế hàng đầu, tôi kỳ vọng vào sự chắc chắn. Nhưng những gì tôi thấy lại là một bức tranh còn nhiều điều chưa rõ ràng, cần sự khảo sát khoa học cởi mở và tinh tế, chứ không phải giáo điều.

Cần nói rõ ràng rằng, tôi không tuyên bố rằng vắc-xin gây ra chứng tự kỷ. Tôi chỉ nói, với sự khiêm tốn và khẩn thiết, rằng chúng ta không biết. Và sự thật là, không ai có thể nói một cách chắc chắn rằng chúng ta biết. Đó mới là vấn đề.

Trẻ bị tự kỷ đang ngày càng gia tăng

Rối loạn phổ tự kỷ (ASD) là một tình trạng phát triển thần kinh phức tạp. Trong khi một số trẻ chỉ bị nhẹ, nhiều trẻ gặp khó khăn nghiêm trọng trong ngôn ngữ, kỹ năng vận động và chức năng hàng ngày. Phạm vi ảnh hưởng là rất rộng và ngày càng gia tăng.

Theo số liệu mới nhất của CDC, cứ 31 trẻ em tại Hoa Kỳ thì có 1 trẻ được chẩn đoán mắc chứng tự kỷ. Tại California, con số còn cao hơn: cứ 12,5 bé trai thì có 1 bé mắc. Dù đúng là các thay đổi trong tiêu chí chẩn đoán và sự gia tăng nhận thức đã góp phần làm tăng số ca, nhưng chúng không giải thích được sự gia tăng trong các trường hợp nặng.

Gần 2/3 trẻ mắc chứng tự kỷ hiện nay có trí tuệ ở mức giới hạn hoặc khuyết tật trí tuệ nặng. Tỷ lệ này cao hơn nhiều so với các thập niên trước. Đây là một cuộc khủng hoảng y tế công cộng mà chúng ta không thể giải quyết nếu không dám đặt ra những câu hỏi khó về nguyên nhân tiềm ẩn.

Ảo tưởng về sự chắc chắn

Chúng ta đã được nghe đi nghe lại rằng câu hỏi này đã được trả lời. Rằng cuộc tranh luận đã kết thúc. Rằng nó đã “được nghiên cứu kỹ lưỡng”.

Khi tôi bắt đầu nghiên cứu cho cuốn sách, tôi kỳ vọng sẽ tìm thấy một thư viện các thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng (RCT) so sánh trẻ đã tiêm chủng và chưa tiêm, dữ liệu dịch tễ học mạnh mẽ theo dõi tác động thần kinh lâu dài của lịch tiêm chủng CDC, và các nghiên cứu đánh giá thời điểm tiêm, sự kết hợp của tá dược, và các cơ chế sinh học khả dĩ.

Thay vào đó, tôi tìm thấy một nhóm nhỏ các nghiên cứu lặp lại, hầu như chỉ tập trung vào vắc-xin MMR (sởi, quai bị, rubella) hoặc thimerosal – một chất bảo quản chứa thủy ngân đã được loại khỏi phần lớn vắc-xin từ 20 năm trước.

Các nghiên cứu được trích dẫn thường xuyên nhất là Madsen (2002), DeStefano (2013), Hviid (2019) không so sánh trẻ tiêm chủng với trẻ không tiêm chủng. Chúng chỉ so sánh những trẻ nhận một loại vắc-xin với trẻ nhận loại vắc-xin khác.

Đó chẳng khác gì nghiên cứu việc hút thuốc gây ung thư bằng cách so sánh thuốc lá có lọc và thuốc lá không lọc – mà không bao giờ so sánh với người không hút thuốc.

Sự thiếu chặt chẽ ở đây không phải là chuyện nhỏ. Đó là nền tảng [để đưa ra kết luận cho vấn đề].

Tôi hoàn toàn kỳ vọng sẽ tìm thấy một khối lượng lớn các thử nghiệm lâm sàng và dữ liệu dịch tễ học xác nhận những gì tôi từng được dạy: rằng vắc-xin không gây ra chứng tự kỷ. Tôi tưởng câu hỏi này đã được giải quyết bằng khoa học hiện đại. Nhưng điều tôi phát hiện khiến tôi sửng sốt.

Không có nghiên cứu lớn, toàn diện nào đánh giá tất cả các vắc-xin trong lịch tiêm chủng CDC và mối liên hệ của chúng với chứng tự kỷ. Những nghiên cứu mà tôi từng nghĩ là đã tồn tại thực chất lại không hề có.

Để hiểu rõ hơn, tôi đã đọc các tác phẩm của hai chuyên gia vắc-xin nổi tiếng – tiến sĩ Peter Hotez và tiến sĩ Paul Offit. Nhưng các nghiên cứu họ trích dẫn vẫn chỉ là một vài cái tên quen thuộc (MMR, thimerosal), và nghiên cứu của DeStefano so sánh số lượng kháng nguyên (không phải việc tiêm vắc-xin thực tế) ở những trẻ đã được tiêm.

Không có tài liệu nào đề cập đến dữ liệu hay nghiên cứu liên quan đến các vắc-xin khác như viêm gan B, DTaP, Hib, IPV, PCV, rota, RSV, cúm mùa, vitamin K, viêm gan A, thủy đậu, hoặc mối liên quan giữa các vắc-xin này và chứng tự kỷ ở trẻ em.

Những điều vẫn chưa được nghiên cứu về vắc-xin

Tuyên bố rằng “khoa học về vắc-xin và tự kỷ đã ngã ngũ” hoặc “mối liên hệ đã bị bác bỏ” không dựa trên nghiên cứu độc lập và toàn diện. Thực tế, tôi tìm thấy:

  • Không có thử nghiệm lâm sàng đối chứng ngẫu nhiên, quy mô lớn, theo dõi lâu dài so sánh trẻ em tiêm chủng đầy đủ với trẻ chưa tiêm.
  • Không có nghiên cứu ý nghĩa nào đánh giá tác động lâu dài của việc trẻ tiêm nhiều vắc-xin cùng lúc – một thực tế đang diễn ra.
  • Gần như không có nghiên cứu nào về tá dược nhôm, dù đã có bằng chứng về khả năng gây viêm thần kinh trong các nghiên cứu trên động vật và tế bào.
  • Không có nghiên cứu nào đánh giá độ an toàn của lịch tiêm chủng CDC như hiện nay – với cách thức, thời điểm và liều lượng đang được áp dụng thực tế.
  • Gần như không có nghiên cứu dài hạn nào về hầu hết các vắc-xin trẻ em ngoài MMR, bao gồm viêm gan B, viêm gan A, rota, PCV, thủy đậu, DTaP, và bại liệt.
  • Không có dữ liệu an toàn dài hạn về các vắc-xin được thêm gần đây như COVID-19, RSV, hay các vắc-xin phối hợp mới (chứa nhiều loại vắc-xin khác nhau). Tất cả đều được đưa vào sử dụng mà không có giám sát hậu thị trường dài hạn trên các nhóm dân số đa dạng.

Viện Y học Hoa Kỳ (Institute of Medicine) – một cơ quan tư vấn độc lập hàng đầu của chính phủ – đã công bố một báo cáo năm 2013 cho thấy lịch tiêm chủng cho trẻ từ sơ sinh đến 6 tuổi chưa từng được đánh giá đầy đủ về mặt khoa học. Báo cáo còn nêu rằng không có đủ bằng chứng để hội đồng chuyên môn xác định liệu lịch tiêm chủng có liên quan đến các rối loạn thần kinh và miễn dịch phổ biến ở trẻ em hiện nay, bao gồm chứng tự kỷ hay không.

Sự thừa nhận này cho thấy thực tế rằng lịch tiêm chủng hiện tại, như đang được áp dụng trên thực tế, chưa từng trải qua sự đánh giá khoa học toàn diện như nhiều người vẫn tưởng. Đây không phải là quan điểm thiểu số. Nó có trong tài liệu chính thức. Nhưng công chúng không bao giờ được nghe điều đó.

Những tín hiệu đáng lo ngại và các câu chuyện bị chôn vùi

Một tổng quan năm 2014 đăng trên tạp chí Pediatrics, nhằm tóm tắt độ an toàn của vắc-xin cho trẻ em, có nhắc đến chứng tự kỷ chín lần. Nhưng hầu hết chỉ để lặp lại tuyên bố quen thuộc rằng MMR không liên quan đến tự kỷ, dựa vào những kết luận trước đó.

Tuy nhiên, ẩn trong bài là một trích dẫn nghiên cứu năm 2010 của Gallagher và Goodman, phát hiện nguy cơ tự kỷ tăng đáng kể ở các bé trai tiêm vắc-xin viêm gan B trong tháng đầu đời – cao gấp ba lần so với những trẻ tiêm muộn hơn hoặc không tiêm. Dù đáng chú ý, nhưng phát hiện này hầu như không được thảo luận.

Tiến sĩ William Thompson, một nhà khoa học cấp cao tại CDC, đã trở thành người tố giác vào năm 2014. Trong lời khai của mình, ông tiết lộ rằng dữ liệu quan trọng cho thấy nguy cơ tự kỷ tăng ở các bé trai gốc Phi được tiêm chủng trước 36 tháng tuổi đã bị loại bỏ khỏi một nghiên cứu mà ông là đồng tác giả. Sau đó ông tuyên bố: “Tôi hối hận vì tôi và các đồng tác giả đã bỏ qua thông tin có ý nghĩa thống kê.”

Lẽ ra điều này phải dẫn đến một cuộc điều tra công khai. Nhưng nó đã không xảy ra.

Khoa học thực sự đòi hỏi điều gì?

Trong công việc của mình, tôi đã nghe đi nghe lại cùng một câu chuyện. Một đứa trẻ khỏe mạnh, vui vẻ được tiêm vắc-xin, thường là nhiều loại cùng lúc. Trong vòng vài giờ hoặc vài ngày, có điều gì đó thay đổi. Đứa trẻ ngừng nói, mất giao tiếp bằng mắt, không phản ứng khi gọi tên. Cha mẹ trẻ hoảng sợ, họ biết có điều gì đó không ổn.

Nhưng khi tìm kiếm sự giúp đỡ, họ bị gạt đi và bị nói rằng đó chỉ là trùng hợp, rằng không thể là do vắc-xin. Họ thường bị gán nhãn “anti vắc-xin” chỉ vì dám đặt câu hỏi. Nhưng những bậc cha mẹ đó không hề chống vắc-xin. Thực ra hoàn toàn ngược lại: họ đã đưa con đi tiêm vì tin tưởng rằng đó là điều đúng đắn.

Họ tin vào hệ thống [y học hiện đại]. Họ làm theo lịch trình. Và khi con họ thay đổi, đôi khi chỉ sau một đêm, họ làm điều tự nhiên nhất: đi tìm câu trả lời. Theo họ, vắc-xin đã gây ra phản ứng nghiêm trọng. Có thể họ đúng. Có thể chỉ là trùng hợp. Nhưng dù thế nào, những câu chuyện đó xứng đáng được lắng nghe. Gạt bỏ chúng hoàn toàn không phải là khoa học mà là giáo điều.

Khoa học thực sự cần sự tò mò. Cần theo đuổi dữ liệu và các báo cáo, ngay cả khi chúng gây khó chịu. Những câu chuyện này không chỉ là giai thoại. Chúng là quan sát, là dữ liệu [thực tế]. Số lượng lớn cha mẹ báo cáo các triệu chứng và thời gian trùng lặp gần như giống hệt nhau đáng lẽ phải khiến chúng ta dừng lại suy nghĩ. Không phải vì nó chứng minh quan hệ nhân quả, mà vì nó xứng đáng với những nghiên cứu sâu hơn, độc lập hơn. Dập tắt những tiếng nói ấy không phải là bảo vệ khoa học mà là làm suy yếu nó.

Những gì chúng ta cần làm

Khoa học không bao giờ là điều bất biến. Nó luôn thay đổi, đặt câu hỏi, thách thức giả định và điều chỉnh kết luận khi có thông tin mới.

Nếu muốn sự thật, chúng ta cần:

  • Tiến hành các nghiên cứu độc lập, tiến cứu, theo chiều dọc, so sánh trẻ đã tiêm và chưa tiêm, sử dụng công cụ đánh giá tự kỷ chuẩn hóa.
  • Khai thác cơ sở dữ liệu y tế quy mô lớn như Vaccine Safety Datalink, hồ sơ y tế điện tử, dữ liệu bảo hiểm để thực hiện phân tích hồi cứu.
  • Thiết kế nghiên cứu theo dõi các nhóm trẻ mà cha mẹ đã chọn không tiêm hoặc trì hoãn tiêm. So sánh với trẻ tiêm đầy đủ, sử dụng các đánh giá phát triển thần kinh chuẩn hóa theo thời gian.
  • Nghiên cứu thời điểm, nhóm vắc-xin, và tần suất tiêm.
  • Đánh giá tác động lâu dài của tá dược, chất bảo quản, và thành phần sinh học lên phát triển thần kinh.
  • Tính đến yếu tố di truyền, bao gồm đột biến, bệnh tự miễn, và rối loạn ty thể có thể khiến một số trẻ có nguy cơ mắc tự kỷ cao hơn.
  • Lắng nghe cha mẹ và xem xét các báo cáo hợp lý như dữ liệu quan sát hợp lệ.
  • Loại bỏ xung đột lợi ích tài chính khỏi nghiên cứu an toàn vắc-xin và đảm bảo tính minh bạch dữ liệu đầy đủ.

Lời kêu gọi trung thực

Tôi không chống lại vắc-xin. Tôi vẫn cung cấp vắc-xin [cho trẻ] tại phòng khám của mình. Tôi tin vào việc [vắc-xin] bảo vệ trẻ khỏi bệnh nghiêm trọng. Nhưng tôi cũng tin vào sự trung thực, khiêm tốn và đạo đức nghề nghiệp.

Tôi không thể ủng hộ một hệ thống cứ nhắm mắt theo một câu chuyện mà không dám thừa nhận những điều chưa từng được nghiên cứu. Tôi không thể ủng hộ một nền khoa học loại bỏ sự bất đồng thay vì phản hồi bằng nghiên cứu tốt hơn.

Chúng ta không cần kiểm duyệt. Chúng ta cần thảo luận cởi mở, tranh luận, và sự tinh tế. Chúng ta cần một nền văn hóa y học biết chấp nhận câu hỏi, tôn trọng quyền được biết, và ôm lấy sự phức tạp.

Chúng ta nợ con cái mình điều đó.

Vì khi sức khỏe của hàng triệu trẻ em bị đe dọa, chúng ta không thể sai. Và cách làm đúng duy nhất là thừa nhận những gì ta chưa biết.

Theo Joel Warsh, The Epoch Times

Tú Liên biên dịch

Bác sĩ Joel Warsh

Published by
Bác sĩ Joel Warsh

Recent Posts

Đường dây sản xuất sữa giả HIUP doanh thu hơn 6.700 tỷ đồng làm khống giấy kiểm nghiệm

Công an phát hiện đường dây sản xuất và buôn bán sữa bột HIUP giả…

1 phút ago

Quảng Ninh khởi động sân golf hơn 100 ha thuộc Vinhomes

Công ty Xây dựng Thái Sơn - công ty con của Vinhomes - đã được…

3 phút ago

Lực lượng Phòng vệ Israel: Iran khai hỏa tên lửa đạn đạo mang đầu đạn chùm

Iran lần đầu tiên trong cuộc xung đột với Israel đã khai hoả một tên…

2 giờ ago

Ngành thuế đề nghị bỏ đăng ký “hộ kinh doanh”, chỉ dùng “cá nhân kinh doanh”

Bộ Tài chính vừa trình Chính phủ Dự thảo Luật Quản lý thuế sửa đổi,…

3 giờ ago

Tướng Iran nói tất cả vật liệu hạt nhân đã làm giàu đã được chuyển tới nơi an toàn

Một vị tướng Iran tuyên bố “toàn bộ các vật liệu [hạt nhân] đã làm…

3 giờ ago

Iran tấn công tên lửa vào bệnh viện Israel, làm hơn 200 người bị thương

Vụ tấn công vào bệnh viện chính ở miền nam Israel hôm thứ Năm (19/6)…

3 giờ ago