(Ảnh: Shutterstock)
Vô sinh là một vấn đề phức tạp ảnh hưởng đến khoảng 7,7% các cặp đôi ở Việt Nam với nhiều nguyên nhân tiềm tàng khác nhau. Vô sinh gây ra nhiều hệ luỵ, từ gánh nặng tâm lý lên người phụ nữ đến đe dọa sự phát triển bền vững của một quốc gia.
Vô sinh liên quan đến hệ thống sinh sản, làm giảm khả năng thụ thai của cơ thể. Nguyên nhân có thể xuất phát từ hệ sinh sản của nam giới, nữ giới hoặc cả hai. Những phụ nữ có thể thụ thai nhưng không thể duy trì thai kỳ cũng được coi là vô sinh.
Theo báo cáo của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) năm 2023, khoảng 17,5% dân số trưởng thành toàn cầu (tương đương 1/6 người) bị vô sinh.
Vô sinh thường gây ra căng thẳng tinh thần nghiêm trọng, bao gồm lo âu, trầm cảm, cảm giác thất bại và mất mát. Cả nam giới và phụ nữ đều có thể bị ảnh hưởng về mặt tâm lý. Về mặt xã hội, vô sinh có thể dẫn đến sự kỳ thị xã hội, đặc biệt ở các nền văn hóa xem việc có con là chuẩn mực.
Việc điều trị vô sinh không chỉ là một hành trình y tế đầy thử thách mà còn tạo ra gánh nặng kinh tế đáng kể đối với các cặp vợ chồng, đặc biệt là khi các phương pháp hỗ trợ sinh sản như IVF (thụ tinh trong ống nghiệm) có chi phí cao và ít được bảo hiểm chi trả. Bên cạnh đó, vô sinh là một trong những nguyên nhân trực tiếp góp phần làm giảm tỷ lệ sinh, từ đó đẩy nhanh quá trình già hóa dân số – một vấn đề đang đe dọa sự phát triển bền vững của nhiều quốc gia.
Vô sinh được chia thành hai loại:
Một cặp đôi được coi là vô sinh nếu không thụ thai sau:
Tuy nhiên, vô sinh không có nghĩa là không thể mang thai. Một số cặp đôi thụ thai tự nhiên khi cố gắng đến năm thứ hai.
Để mang thai, cần đáp ứng các điều kiện sau:
Vô sinh có nhiều nguyên nhân, đôi khi không xác định được. Khoảng một phần ba trường hợp do vấn đề ở nữ giới, một phần ba do nam giới, và phần còn lại là do kết hợp hoặc nguyên nhân không rõ. Nhiều cặp đôi gặp nhiều yếu tố ảnh hưởng đến khả năng sinh sản.
Nguyên nhân chung của vô sinh ở cả nam và nữ bao gồm:
Tiêu chí | Nữ giới | Nam giới |
Nguyên nhân chính | Khó rụng trứng, trứng không di chuyển, phôi không bám hoặc không sống sót | Tinh trùng yếu, ít, bất thường hoặc không xuất tinh được |
Yếu tố nội tiết | Rối loạn hormone vùng dưới đồi, tuyến yên (ung thư tuyến yên, suy tuyến yên, tiểu đường type 1) | Rối loạn hormone điều hòa sản xuất tinh trùng, u tuyến yên, suy sinh dục, hội chứng Klinefelter |
Vấn đề cấu trúc và di truyền | Tắc ống dẫn trứng, u nang buồng trứng, hội chứng buồng trứng đa nang, lạc nội mạc tử cung, u xơ tử cung, hội chứng Turner, Fragile X | Xơ nang, tích tụ sắt, mất đoạn nhiễm sắc thể Y, giãn tĩnh mạch thừng tinh, xoắn tinh hoàn, tinh hoàn ẩn |
Vấn đề miễn dịch | Miễn dịch tấn công phôi thai | Miễn dịch tấn công tinh trùng |
Vấn đề cổ tử cung/tinh dịch | Chất nhày cổ tử cung dày, ngăn cản tinh trùng | Xuất tinh ngược, thắt ông dẫn tinh, rối loạn cương dương |
Di chuyển của giao tử | Trứng không di chuyển được đến tử cung | Tinh trùng bơi kém, không phóng tinh được |
Bệnh lý liên quan | Rối loạn đông máu, u xơ tử cung, polyp tử cung, hội chứng antiphospholipid | Quai bị, ung thư, các bệnh lý mãn tính khác |
Tác động từ môi trường | Kim loại nặng (cadmium, thủy ngân, và chì), hóa chất vĩnh cửu PFAS, thuốc trừ sâu, hóa chất gây rối loạn nội tiết, nhiễm trùng vùng chậu, thuốc hóa trị, sử dụng thuốc giảm đau NSAIDs (ibuprofen, aspirin) liều cao hoặc kéo dài | Vi nhựa, thuốc trừ sâu, thuốc diệt côn trùng, thuốc trừ nấm, bức xạ điện từ, nhiễm trùng (quai bị) |
Yếu tố lối sống | Ăn uống kém, tập luyện quá mức, thiếu cân | Sử dụng ma túy, thuốc (ví dụ thuốc viêm khớp, trầm cảm, rối loạn tiêu hóa, lo âu, nhiễm trùng, cao huyết áp, và ung thư), căng thẳng, béo phì |
Tỷ lệ suy giảm theo thời gian | Bị ảnh hưởng bởi tuổi và môi trường | Nồng độ tinh trùng giảm hơn 50% trong 40 năm qua |
Các yếu tố làm tăng nguy cơ vô sinh bao gồm:
Các biến chứng của vô sinh và điều trị bao gồm:
Vô sinh có thể tự khỏi hoặc được điều trị. Khoảng 20% cặp đôi được chẩn đoán vô sinh có thể thụ thai tự nhiên mà không cần điều trị, trong khi phần lớn mang thai sau khi điều trị.
Học cách chọn thời điểm quan hệ đúng có thể cải thiện cơ hội mang thai. Quan hệ ít nhất hai ngày trước và trong thời kỳ rụng trứng là lý tưởng. Rụng trứng thường xảy ra khoảng hai tuần trước kỳ kinh tiếp theo. Với chu kỳ 28 ngày, quan hệ từ ngày 10 đến 18 sau khi bắt đầu kinh nguyệt là tốt nhất. Nên quan hệ trước rụng trứng sẽ tối ưu hóa khả năng thụ tinh, vì tinh trùng có thể sống ít nhất hai ngày trong cơ thể nữ, còn trứng chỉ có thể thụ tinh trong 12-24 giờ sau khi rụng.
Có nhiều lựa chọn khác nếu việc chọn thời điểm và kiên trì không hiệu quả.
Bác sĩ có thể kê đơn thuốc để phụ nữ điều chỉnh rụng trứng, nhưng các thuốc này cũng có thể kích thích phóng nhiều trứng, làm tăng khả năng sinh đôi hoặc đa thai. Một số thuốc bao gồm:
Phẫu thuật có thể loại bỏ mô sẹo hoặc điều trị các tình trạng như u xơ gây vô sinh. Ở nam giới, phẫu thuật có thể bao gồm đảo ngược thắt ống dẫn tinh hoặc chọc hút tinh trùng qua da từ mào tinh (PESA), sử dụng kim lấy tinh trùng từ tinh hoàn để dùng ngay cho công nghệ hỗ trợ sinh sản hoặc đông lạnh.
Mặc dù không trực tiếp ảnh hưởng đến khả năng sinh sản, tâm lý đóng vai trò quan trọng trong sức khỏe cảm xúc và thể chất. Tâm trạng tích cực có thể giảm căng thẳng, cải thiện khả năng đối phó, và thúc đẩy lựa chọn lối sống lành mạnh, từ đó có thể tăng khả năng sinh sản. Sức khỏe tinh thần cũng ảnh hưởng đến mối quan hệ và khả năng quản lý các phương pháp điều trị sinh sản. Niềm hy vọng có thể đem lại kết quả tốt hơn.
Nhiều phương pháp tự nhiên có thể hỗ trợ điều trị vô sinh, nhưng cần thêm nghiên cứu để xác nhận hiệu quả và độ an toàn. Nên tham khảo ý kiến bác sĩ trước khi thử.
Theo đánh giá năm 2021, một số thảo dược chứa hợp chất polyphenolic như isoflavone và flavonoid hỗ trợ sức khỏe sinh sản nữ, điều chỉnh đường dẫn nội tiết và điều trị các rối loạn như PCOS, suy buồng trứng sớm, lạc nội mạc tử cung, và tăng prolactin máu. Một số thảo dược bao gồm:
Các chất bổ sung có thể cải thiện chất lượng trứng và tinh trùng bao gồm:
Phân tích tổng hợp năm 2020 của 24 nghiên cứu cho thấy ôn châm cứu có khả năng cao nhất trong việc tăng tỷ lệ mang thai, trong khi châm cứu đơn thuần ảnh hưởng tích cực nhất đến tỷ lệ rụng trứng. Kết hợp châm cứu và cứu ngải cải thiện đáng kể tỷ lệ sảy thai ở phụ nữ Trung Quốc.
Liệu pháp ong sử dụng các sản phẩm từ ong như phấn hoa, sữa ong chúa, nọc ong, và keo ong. Nghiên cứu năm 2023 cho thấy sản phẩm từ ong có thể hỗ trợ vô sinh liên quan đến buồng trứng đa nang. Nghiên cứu năm 2021 gợi ý liệu pháp có lợi cho nam giới vô sinh. Thử nghiệm ngẫu nhiên nhỏ năm 2003 cho thấy keo ong có thể là lựa chọn hiệu quả cho vô sinh liên quan đến lạc nội mạc tử cung mức độ nhẹ.
Nghiên cứu năm 2015 cho thấy massage cải thiện kết quả IVF ở bệnh nhân chuyển phôi đông lạnh, có thể do giảm căng thẳng, giảm co bóp tử cung, và cải thiện lưu lượng máu vùng bụng. Nghiên cứu năm 2008 cho thấy 28 phụ nữ vô sinh với tắc hoàn toàn ống dẫn trứng được massage vật lý vùng bụng 20 giờ. Một tháng sau, 61% bệnh nhân có ống dẫn trứng thông thoáng, và 9 trên 17 người mang thai.
Vô sinh không thể phòng ngừa hoàn toàn, đặc biệt khi liên quan đến yếu tố di truyền hoặc cấu trúc. Tuy nhiên, các chiến lược sau có thể hữu ích:
Vô sinh là một vấn đề phức tạp, nhưng với sự hiểu biết và các lựa chọn điều trị hiện đại cùng các phương pháp tự nhiên, nhiều cặp đôi có thể cùng nhau vượt qua khó khăn để đạt được ước mơ làm cha mẹ.
Cục Thuế vừa thông báo kế hoạch tạm dừng một số ứng dụng công nghệ…
Trằn trọc mãi vẫn không thể ngủ được, nhưng khi vô tình giơ tay lên…
Ngày 15/5, giá xăng được điều chỉnh tăng sau 2 lần giảm.
Việt Nam và Hoa Kỳ trao đổi kỹ thuật về Hiệp định tránh đánh thuế…
Xuất khẩu dệt may của Việt Nam trong tháng 4/2025 đạt 3,64%, tăng 15% so…
Quốc hội Tiểu bang Texas chỉ định ngày 13 tháng 5 năm 2025 là "Ngày…