(Tranh minh họa: Pixnet.net, Public Domain)
“Nhẫn” là một khái niệm quen thuộc mà chúng ta thường nghe thấy trong cuộc sống hằng ngày, nhất là khi phải đối mặt với khó khăn, thất bại. Đây là một đức tính gắn liền với sự bền bỉ, kiên trì và khả năng chịu đựng. Từ thời cổ đại, người xưa đã biết được tầm quan trọng của nhẫn nại trong đối nhân xử thế, trong tu tâm dưỡng tính. Thông qua thơ từ, nhạc họa, chữ “Nhẫn” xuất hiện như là lời khuyên răn, bài học cho người đời sau. Đặc biệt là trong thơ thời nhà Đường hay trong thể loại văn học Từ của thời nhà Tống, cảnh giới của “Nhẫn” là sự thể ngộ sâu sắc của các thi nhân đối với những khổ nạn của sinh mệnh, đối với hiện thực xã hội và thậm chí là sự siêu thoát về mặt tinh thần.
“Nhẫn” trong thi ca Đường Tống thường đan xen với những hình ảnh bệnh tật, lưu đày, giáng chức, ly biệt, cô đơn, thể hiện ra sự kiềm chế của cá nhân trong hoàn cảnh khó khăn khốn cùng.
Thi nhân Đỗ Phủ viết:
Phong cấp, thiên cao, viên khiếu ai,
Chử thanh, sa bạch, điểu phi hồi.
Vô biên lạc mộc tiêu tiêu há,
Bất tận trường giang cổn cổn lai.
Vạn lý bi thu thường tác khách,
Bách niên đa bệnh độc đăng đài.
Gian nan khổ hận phồn sương mấn,
Lạo đảo tân đình trọc tửu bôi.
Dịch nghĩa:
Gió thổi gấp, trời cao, vượn kêu buồn,
Bến nước trong, cát trắng, chim bay lượn vòng.
Vô vàn lá xào xạc rụng xuống,
Dòng sông dài cuồn cuộn chảy vô tận.
Xa nhà vạn dặm, vẻ thu hiu hắt, mãi vẫn làm khách xứ người,
Cuộc đời lắm bệnh, một mình lên đài cao.
Gian nan, khổ hận, tóc mai dày nhuốm màu sương gió,
Thân già ốm yếu nên mới phải thôi cạn chén rượu đục.
“Vạn lý bi thu thường tác khách”, tôi là khách xứ người trong mùa thu buồn, xa nhà vạn dặm. Đỗ Phủ làm bài thơ này khi tuổi già, không lâu sau thì ông mất. Nỗi buồn tuổi già có lẽ là cảm xúc mà rất nhiều con người thế gian phải chịu, và phải nhẫn chịu.
Thi nhân Nguyên Chẩn cuối thời nhà Đường viết trong “Văn nhạc thiên thụ Giang Châu Tư Mã”:
Tàn đăng vô diễm ảnh song song,
Thử tịch văn quân trích Cửu Giang.
Thùy tử bệnh trung kinh tọa khởi,
Ám phong xuy vũ nhập hàn song.
Dịch nghĩa:
Đèn tàn không còn ánh sáng, bóng tối lay động mờ mờ,
Đêm nay nghe tin bạn bị giáng chức tới Cửu Giang.
Đang bệnh nặng gần chết, ta giật mình ngồi bật dậy,
Gió tối thổi mưa tạt vào cửa sổ lạnh lẽo.
Bài thơ thể hiện nỗi bàng hoàng, đau đớn và bi ai của tác giả khi nghe tin bạn thân là Bạch Cư Dị bị đày, đồng thời bộc lộ tấm chân tình sâu sắc của ông dành cho Bạch Cư Dị. Đây còn là cách bộc lộ sự nhẫn nại chịu đựng, vừa chịu nỗi đau bệnh tật, lại vừa chịu nỗi buồn thương cho bạn mình.
Trong bài “Sửu nô nhi”, Tân Khí Tật thời Tống viết:
Thiếu niên bất thức sầu tư vị,
Ái thượng tầng lâu,
Ái thượng tầng lâu,
Vị phú tân từ cường thuyết sầu。
Nhi kim thức tận sầu tư vị,
Dục thuyết hoàn hưu,
Dục thuyết hoàn hưu,
Khước đạo: Thiên lương hảo cá thu.
Dịch nghĩa:
Khi còn trẻ, tôi chẳng biết mùi vị của nỗi buồn,
Chỉ thích trèo lên lầu cao ngắm trời đất.
Thích lên lầu cao như một thói quen,
Để có cớ làm thơ mới mà gượng ép viết về nỗi buồn.
Giờ đây, đã hiểu tận cùng nỗi sầu nhân thế,
Muốn nói ra mà rồi lại thôi.
Muốn nói ra lại nghẹn nơi cổ họng,
Chỉ buông một câu: “Trời se lạnh – một mùa thu thật đẹp!”
Tân Khí Tật là chí sĩ thời Tống, mong muốn khôi phục giang sơn, nhưng triều đình hèn nhát nên ông không được trọng dụng, bị gạt ra ngoài. Vậy nên “nhẫn” của ông có một phần bất đắc dĩ, bất đắc chí. Đây là nỗi buồn thời thế, và cái “Nhẫn” vì thời thế.
“Nhẫn” trong thi ca Đường Tống cũng là thể hiện của trí tuệ. Thi nhân Hàn Ác thời cuối nhà Đường viết “Nhẫn tiếu”:
Cung dạng y thường thiển họa my
Vãn lai sơ tẩy cánh tương nghi
Thủy tinh anh vũ thoa đầu chiến
Cử duệ dương tu nhẫn tiếu thì
Dịch nghĩa:
Quần áo kiểu cung đình, lông mày vẽ nhạt
Chiều đến rửa mặt búi đầu rất đúng nghi thức.
Cây thoa đầu bằng thủy tinh hình con vẹt bỗng rung lên,
Đưa tay áo vờ e thẹn, che nụ cười nhẫn nại.
“Nhẫn tiếu” ở đây chỉ sự khắc chế tiếng cười, là trí tuệ nhẫn nại của người phụ nữ.
Trong bài “Bạch Phát”, thi nhân Tề Kỷ viết:
Mạc nhiễm diệc mạc nhiếp
Nhậm túng y mãn đầu
Bạch tuy vô nại điếu
Hắc dã bất cấm thu
Tĩnh chẩm thính thiền ngọa
Nhàn thùy khán thủy lưu
Phù sinh vị đạt thử
Đa vi nhĩ vi sầu
Dịch nghĩa:
Chớ nhuộm mà cũng chớ nhổ
Chấp nhận cho mọc phủ đầy đầu
Không có thuốc gì chống lại tóc bạc
Vậy tóc đen sẽ không qua khỏi mùa thu
Yên tĩnh gối đầu nghỉ ngơi nghe ve kêu
Nhàn hạ nghiêng đầu nhìn nước trôi
Kiếp sống lênh đênh vì chưa thông lẽ ấy
Tóc bạc nhiều có làm sao mà sầu vậy.
Tề Kỷ sống vào cuối thời Đường, mồ côi từ nhỏ, xuất gia lên núi. Thơ của ông bình dị, ít dùng điển tích, luôn mang lại cảm giác bình thản, chân thành, dẫn người ta về với sự siêu thoát của Phật gia. Cái “Nhẫn” của Tề Kỷ cho thấy một sự thản nhiên chấp nhận, đã không còn vướng bận về thế gian tục sự.
Thi nhân Vương Duy viết trong bài “Chung Nam biệt nghiệp”:
Trung tuế phả hảo đạo,
Vãn gia Nam sơn thuỳ.
Hứng lai mỗi độc vãng,
Thắng sự không tự tri.
Hành đáo thuỷ cùng xứ,
Toạ khan vân khởi thì.
Ngẫu nhiên trị lâm tẩu,
Đàm tiếu vô hoàn kỳ.
Dịch nghĩa:
Tuổi trung niên rất mến Đạo,
Về già ở mé núi Nam.
Khi hứng lên thường đi một mình,
Việc vui chỉ mình tự biết.
Đi đến nơi nước cạn,
Ngồi nhìn lúc mây nổi.
Tình cờ gặp lão trong rừng,
Nói cười chẳng biết ngày về.
“Hành đáo thủy cùng xử, tọa khán vân khởi thì”, đi đến chỗ nước cạn, ngồi nhìn lúc mây bắt đầu hiện ra. Mặc dù trong câu thơ không sử dụng từ “Nhẫn” nhưng lại ngầm có ý nhẫn nại và siêu thoát. Thiền ý trong bài thơ này của Vương Duy quả là khiến người đọc thăng hoa về tâm cảnh.
Qua thi ca Đường Tống, “Nhẫn” đã biểu hiện ra nội hàm sâu sắc. Dù là Tân Khí Tật nhẫn vì chí chưa đạt, hay Vương Duy lặng ngắm mây bay, dù là nỗi bi ai cá nhân hay nghịch cảnh của thời đại, dù là trí tuệ xử thế hay sự siêu phàm thoát tục, các thi nhân đã cho thấy chính nhờ chữ “Nhẫn” mà con người mới có thể bước qua bão giông, và hơn thế nữa, có thể tìm được con đường sáng suốt an nhiên trong dòng đời biến động.
Theo Epoch Times tiếng Trung
Tác giả: Lâm Phương Vũ
An Hòa biên tập
Xem thêm:
Mời xem video:
Nhiều hộ kinh doanh đang tính toán lại chi phí đầu vào để điều chỉnh…
"Hố tử thần" mới có miệng hố dài khoảng hơn 1m, rộng 60cm, sâu khoảng…
Không phải loại đường nào cũng gây hại cho cơ thể. Một số loại, khi…
Chủ tịch Hạ viện Mike Johnson (Đảng Cộng hòa, Louisiana) cho biết ông hy vọng…
Các nhà thiên văn học phát hiện ra rằng hành tinh khổng lồ TOI-6894b quay…
Harvard, được thành lập vào năm 1636, đã tồn tại 140 năm trước khi thành…