Âm nhạc Huế từ lâu vốn rất phong phú bởi nó được sản sinh từ một vùng đất trước đây là của Chiêm Thành (Chăm) được người Việt miền ngoài tiếp nhận. Người Việt vào đây mang theo âm nhạc từ bao đời của họ, đến vùng đất mới họ nghe được âm nhạc của người bản địa (vẫn là cư dân đa số), từ đó có sự giao lưu, hòa nhập, tiếp thu và có sự tiếp biến trong cảm quan âm nhạc của người Huế.
Thật ra âm nhạc Chiêm Thành bước đầu hòa nhập vào suối nguồn nhạc Đại Việt từ thời Lý khi vua Lý Thái Tông cho múa hát khúc Tây Thiên và vua Lý Cao Tông cho soạn khúc Chiêm Thành âm. Có thể đây chưa hẳn là bằng chứng về ảnh hưởng của nhạc Chiêm Thành trên nhạc Đại Việt nhưng điều đó có thể khẳng định từ thời điểm này chúng ta đã nghe và biết đến nhạc Chiêm Thành. Sau này khi hai châu Ô, châu Rí đã thuộc về Đại Việt, một phần âm nhạc Chiêm Thành đã ở lại với vùng đất này. Từ đó sự giao lưu trong sinh hoạt với phần âm nhạc bản địa đã để lại dấu ấn là điệu Nam hơi ai trong âm nhạc Huế.
Trước khi tìm hiểu về hệ thống thang âm, chúng ta thử điểm lại các loại hình trong âm nhạc Huế. Có thể kể đến hai loại hình chính là âm nhạc bác học (nhạc cung đình, nhạc thính phòng…) và âm nhạc dân gian (nhạc tôn giáo, nhạc tín ngưỡng, các loại hát, ngâm, ru, hò, vè, lý…). Sự phân chia này không có nghĩa đây là hai loại hình biệt lập mà thật ra có sự giao thoa và ảnh hưởng lẫn nhau vì đều là ngôn ngữ âm nhạc của xứ Huế cả.
1. Âm nhạc bác học
Gọi là âm nhạc bác học bởi nó xuất phát từ những nhà nghiên cứu thuộc tầng lớp hoàng gia, quan lại được cung đình giao phó nhiệm vụ hoặc các nghệ nhân quý tộc. Họ có kiến thức về âm nhạc và nghệ thuật múa có thể sáng tạo nên bài bản làm mẫu mực cho giới thưởng ngoạn là vua quan hoặc tầng lớp cao trong xã hội.
a) Âm nhạc cung đình: Vì Huế là kinh đô nước Việt dưới triều Nguyễn nên ở đây đã xuất hiện một thứ âm nhạc bác học mà loại hình nổi trội chính là âm nhạc cung đình. Khi nói đến loại nhạc này, nhiều người thường gắn triều Nguyễn vào để gọi là âm nhạc cung đình triều Nguyễn. Thật ra phải gọi đúng là âm nhạc cung đình Việt Nam, bởi triều Nguyễn đã tích lũy tinh hoa của loại nhạc cung đình từ các triều đại trước đó (từ trước đời Lý cho đến các đời chúa Nguyễn) và làm phong phú thêm để tạo nên điển chế, quy ước và vốn liếng bài bản (répertoire) được xếp đặt rành rẽ mang bản sắc riêng của âm nhạc bác học Việt Nam. Với giá trị phong phú và độc đáo của nó, ngày 7-11-2003 Tổ chức Giáo dục – Khoa học và Văn hóa của Liên Hiệp Quốc (UNESCO) đã công nhận âm nhạc cung đình Huế là kiệt tác di sản phi vật thể và truyền miệng của nhân loại.
Nhạc cung đình gồm có đại nhạc và tiểu nhạc, gọi chung là nhã nhạc, có các loại như sau: giao nhạc (nhạc dùng trong tế lễ bên ngoài cung đình, đây là lễ tế trời đất tại Nam giao và Bắc giao), miếu nhạc (nhạc dùng trong các lễ tế miếu ở Thái Miếu, Triệu Miếu, Thế Miếu, Hưng Miếu, Văn Miếu, Liệt Miếu), ngũ tự nhạc (nhạc dùng trong các dịp tế Thành hoàng, Xã tắc, Thần Nông), đại triều nhạc (nhạc dùng trong các lễ đại triều như các ngày mồng một, rằm, Tết Nguyên đán, Tết Đoan dương, lễ Vạn thọ, Thánh thọ, lễ đăng quang, ngày truyền lô thi đình, lễ ban sóc, lễ đón tiếp sứ thần nước ngoài…), thường triều nhạc (nhạc dùng trong các ngày mồng 5, mồng 10, 20, 25 hằng tháng là các ngày thiết thường triều, sử dụng ban Tế nhạc và dàn nhạc bát âm gồm 8 loại nhạc khí: bào, thổ, cách, mộc, thạch, kim, ty, trúc), yến nhạc (nhạc dùng trong các dịp đãi yến tiệc lớn trong cung đình, có các dàn nhạc, ca công và các đội múa), cung nhạc (âm nhạc diễn tấu trong nội cung, có dàn nhạc và các điệu múa như múa văn, múa võ, múa bông, múa đèn). Như vậy, trong nhạc cung đình, ta thấy phần nhạc lễ giữ vai trò quan trọng.
Bên cạnh các loại nhạc trên, gồm nhạc diễn tấu có hoặc không có lời ca, trong một số nghi lễ còn có sự xuất hiện các điệu múa thiết yếu đi liền với lời ca hầu hết là tiếng Hán Việt. Cho đến nay còn tồn tại 11 điệu múa cung đình, được trình diễn trong các dịp khác nhau, gồm múa nghi lễ (các điệu múa Bát dật, Lục cúng, Song quan), múa chúc tụng (Tam tinh chúc thọ, Bát tiên hiến thọ, Trình tường tập khánh, Vũ phiến, Lục triệt hoa mã đăng, Tứ linh), múa tuồng tích (Tam quốc- Tây du, Nữ tướng xuất quân).
b) Ca nhạc thính phòng: Đây là loại hình âm nhạc bác học được các nhà trước tác âm nhạc chuyên nghiệp hoặc các nghệ nhân trong dân gian được trưng tập vào cung đình làm ra trước hết phục vụ tầng lớp dòng dõi vương triều và quý tộc, thường được gọi là ca Huế. Nó không thuộc loại âm nhạc cung đình, cũng không thuộc âm nhạc dân gian. Tuy vậy ca Huế tiếp thu được phong cách tao nhã của nhạc cung đình, lời ca mang đậm tính chất văn chương đồng thời tiếp thu được tinh hoa âm nhạc dân gian để làm giàu bản sắc riêng của loại hình ca nhạc này. Ca Huế được phát triển qua thời gian để đi đến mức độ hoàn chỉnh thành đường nét giai điệu của lòng bản cố định. Loại hình này có lời ca ít dính dáng đến sinh hoạt lao động của xã hội mà trước hết trở thành thú vui tao nhã của tầng lớp cao trong xã hội cũ. Đây là hình thức ca nhạc thính phòng với không gian diễn tấu nhỏ hẹp với một nhóm ít diễn viên. Tuy vậy nó đã vượt ra ngoài khuôn khổ của nhạc thính phòng để ngày càng được phổ biến sâu rộng hơn trong dân gian. Ca Huế có lợi thế lời ca bằng tiếng Việt, dễ nhớ dễ thuộc hơn chữ Hán. Chính vì vậy ca Huế dễ được quần chúng tiếp nhận, nó có đời sống lâu dài cho tới ngày nay và đã trở thành tài sản chung của dân gian.
Hiện ca Huế có một số bài cơ bản như sau:
Ngoài những bài cơ bản nêu trên, ca Huế còn có thể đưa vào buổi diễn một số làn điệu lý và hò trong âm nhạc dân gian như các bài Lý tình tang, Lý tử vi, Hò mái đẩy, Hò mái nhì (với chức năng một câu dạo, câu rao trước khi vào điệu Nam bình)…
2. Âm nhạc dân gian
Âm nhạc dân gian Việt Nam nói chung, vùng Thừa Thiên – Huế nói riêng, rất phong phú với nhiều thể loại. «Các bài dân ca không phải là công trình của một tài năng đơn độc mà là sản phẩm của toàn thể nhân dân… Dân ca giống như những đóa hoa huệ mọc nơi hang sâu núi thẳm mà cái đẹp trong trắng, thuần nhiên làm mờ hết màu gấm vẻ ngọc của các tác phẩm kinh viện» (Sérov). Nó xuất hiện ngay cả trước khi nghệ thuật bác học ra đời bởi nó gắn bó chặt chẽ với những hoạt động thực tiễn của con người, với lao động của cá nhân và cộng đồng trong cuộc sống.
Trong các loại âm nhạc dân gian vùng Thừa Thiên-Huế nổi bật nhất là các điệu hò, gọi chung là hò Huế. Về thuật ngữ hò, Lê Quý Đôn là người đề cập sớm nhất: “Khiêng cây gỗ to, người ở trước hô tà hử, người sau cũng đáp lại. Đó là tiếng hò để gắng sức trong lúc khiêng nặng. Tục ngày nay hô ô hà tức là đó” (1). Năm 1808 từ điển Dictionnaire annamite- francais của J.F.M. Génibrel giải thích: «Hò là tiếng hô của những người chèo thuyền, với tiếng ấy người ta điều chỉnh những động tác chèo thuyền». Nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát định nghĩa: «Hò là những điệu hát xuất phát trực tiếp từ lao động, thúc đẩy công tác lao động, gây phấn khởi hào hùng» (2). Giáo sư Trần Văn Khê viết: «Hò là những bài hát truyền khẩu, phát sinh từ trong dân chúng, được truyền tụng và phổ biến trong dân chúng» (3). Hò Huế cũng đi từ môi trường lao động, tiếp bước vào môi trường nghi lễ, giải trí rồi vươn tới thi thố tài năng trong lĩnh vực văn chương…, bao gồm nhiều điệu mà phổ biến là các điệu hò sau:
– Hò đẩy nôốc:
Ơ ơ ơ… Ai sinh cồn cạn này ra
Áo quần rách nát thịt da gầy mòn, la hè la hè…
Ơ ơ ơ…Trước mui xu xa, sau lai cũng xu xa
Đứa mô không đẩy thì trôi cả bà liền con, la he la he…(4)
– Hò giã gạo:
Hơ hơ hơ hơ hơ hơ khoan hô khoan ta mời bạn mà khoan mà lại là hò là khoan (hư). Hơ hơ hơ hơ hơ Thiếp gặp chàng như rồng mây kia mà gặp hội. Chàng mà gặp thiếp như chim phụng hoàng mà gặp cội ngô với cây là ngô (hưm). Ơ ơ mấy lâu ni thì kẻ Hán mà người Hồ là bữa ni thiên a tri cùng mà lý hơ ngộ hơ hơ. A ha hơ hô hô bữa ni thiên tri mà lý ngộ là quyết phân phô tình cho tận là tình hơ hơ (5).
– Hò nện (hò hụi):
Ai mà (nì) là hô hò khoan lợp miệu thiếu tranh là hô hồ khoan, lợp đình (mà) thiếu ngói (nì) là hô hò khoan, xây thành thiếu vôi là hô hồ khoan hồ khoan hời hồ khoan… Khoan rằng (nì) là hồ hồ khoan, khoan tới khoan lui, là hồ hồ khoan, khoan anh có vợ, la hồ hồ khoan, khoan tui có chồng, là hồ hồ khoan… Hết khoan rồi sang hụi, hô hồ hụi, hết hụi thì khoan, là hồ hồ khoan… (6)
– Hò lờ:
Em ôm bó mạ xuống đồng (ai nghe hò lờ), miệng hò tay cấy (ai nghe hò lờ) mà lòng nhớ ai .Hò lơ hó lơ lắng tai nghe hó lơ hò lờ… Em chờ cho hết sức chờ (ai nghe hò lờ) chờ cho rau muống (ai nghe hò lờ) lên bờ trổ bông. Hò lơ hó lơ lắng tai nghe hó lơ hò lờ. (7)
– Hò ô (hò đạp nước):
Ô ô ô ồ…Em không nhớ là khi mô khi mạ úa ruộng khô Ồ ô ồ…Em giậm chân kêu một tiếng hò. Ô ô ô ô…Anh đạp nước bên ô cũng về ê. Ô ô ô ồ… (8).
– Hò ru con (ru em):
Ru con cho théc cho muồi để mẹ đi chợ (ạ ơ) mua vôi (rứa) ăn trầu (ạ ơ). Mua vôi chợ Quán chợ Cầu (rứa) Mua cau Nam Phổ (ạ ơ) mua trầu (rứa) chợ Dinh (i)… (9).
– Hò mái nhì:
(Hơ hơ hơ hơ ơ hời ha hơ hơ hơ hư ha Hô hô hô hô) Trước bến (hưm) (hơ hơ hơ…) Văn Lâu chiều (hà ha hơ) chiều (hơ hơ)… Chiều chiều trước bến Văn Lâu ai ngồi ai câu ai sầu ai thảm, ai thương ai cảm ai nhớ ai là trông (hơ hơ hơ hơ hơ hưm). Hơ… Thuyền ai thấp thoáng bên sông (lại) đưa (ơ hơ) câu (thí) mái (hà hy). Hơ… mái đẩy nên chạnh (ha hơ hơ hơ hơ) lòng. Hơ…Ơ hơ hơ…chạnh lòng non nước là non (hơ hơ hơ…) (10)
– Hò bài chòi:
Ô ô ô ô…Mười một chòi lằng lặng mà nghe nì, thuyền ta thì đậu bến ta, can chi nhổ cọc cắm qua thuyền người. Là con nọc ơ…đương. (11)
– Hò bài thai:
Ê ê ê ề…Em không ra lấy chồng thì thiên với hạ đàm tiếu, mà em ra lấy chồng thì bỏ mẹ yếu em thơ. Thôi thôi em ở làm rứa dẫu tóc bạc như tơ cũng đành i…(đáp số con nghèo hoặc thầy chùa) (12).
– Hò đưa linh:
Cảm thương nỗi dân đen đoái trông dạ chừng, hồn hóa theo mây, đưa ling an sàng, suối vàng mấy dặm…
Mẹ già thọ bệnh, khi nóng khi lạnh, thuốc thang chẳng rời, mẹ về chầu trời…(13).
Đó là chưa kể một số điệu hò khác như hò kéo gỗ, kéo lưới, hò xay lúa, hò đạp lúa; hò mái đẩy (tới lớp mái thì đẩy thuyền tới), hò mái xấp (hò khi gặt lúa, những lớp mái được hát xấp đôi nhanh hơn), hò mái ba (lớp mái được hát sô đúng ba lần); hò nghé, hò đua ghe, hò lề số…
Nói vè cũng là một hình thức được ưa chuộng, tức là nói có vần điệu các bài thơ lục bát, song thất lục bát hoặc những câu 5,6,7 tiếng, tính chất thiên về tự sự. Vè thường xoay quanh các nội dung chính là thế sự, sự kiện lịch sử, chẳng hạn diễn xướng đơn sơ như Vè nói trạng, hoặc dài hơi như Vè thất thủ kinh đô:
Hãy còn có mặt mầy đây
Thành đô khôi phục nhớ ngày quảy đơm
Ví dầu dĩa muối bát cơm
Cô dì thúc phụ quảy đơm (cho) nhớ ngày…
… Chẳng qua Nam Việt thời hư
Quân thần phụ tử lên chừ rừng xanh
Thở than trong chỗ rừng xanh
Bao giờ khôi phục chốn thành kinh đô… (14)
Điệu ngâm, thường là nói thơ, ngâm thơ, cũng là hình thức diễn xướng có âm điệu, không cần tiết tấu hay phụ họa, với nhiều thể thơ khác nhau như Đường luật, lục bát, song thất lục bát, thơ mới… Ngâm có ở cả ba miền, song ở Huế thường sử dụng ngũ cung có sắc thái Huế.
Điệu ru cũng là diễn xướng các câu thơ lục bát, biến thể với âm điệu ngọt ngào để đưa trẻ vào giấc ngủ, có dùng tiếng đệm, tiếng lót như ạ ơ hờ, ơ ơ… Đôi khi điệu ru cũng là dịp mà người ru giãi bày tâm sự của chính mình.
Điệu lý là những bài hát dân dã từ làng quê mà ra, có tính chất quê mùa, đối lập với những bài ca của tầng lớp thượng lưu trí thức (ca nhạc cung đình và thính phòng). Bài lý đưa nhạc điệu vào các bài thơ để giãi bày đời sống tinh thần của người dân quê lúc làm việc, nghỉ ngơi, hội hè. Lý có thể độc diễn hay đồng diễn đối đáp nam nữ, gọi là lý giao duyên. Huế có các bài lý khá phổ biến như:
– Lý tình tang:
Non cao ai đắp nên cao, bể…sâu bể sâu nhờ bởi(ô tang ô tang tình tang) ai…đào (ô tang tình tang) sâu nên sâu, sâu nên sâu (ô tang ô tang tình tang tình tang tình ô tang tình tang ô tang tình tang). (15)
– Lý giang nam:
Giương cung mà bắn ư… bắn bắn bắn bắn bắn cò bắn con cò (tình bạn) con cò ư…(tình bạn) con cò ư… Để cung để cung vác súng ư… bắn bắn bắn bắn bắn cò bắn con cò (tình bạn) cò bay ư… (tình bạn) cò bay ư… (16).
– Lý hoài xuân (Lý con sáo Huế):
Ai đem con sáo sang sông, để…cho để cho con sáo (ơi người ơi) sổ…lồng (ơi người ơi) bay xa, sổ lồng (ơi người ơi) bay xa (17).
– Lý nam xang:
Làm người phải có (ư) luân ngũ luân (ư) luân ngũ luân. Nếu mà (tình như) thiếu một (a í a) mười phân mười phân thẹn thuồng (u xang u xang u liu phàn) mười phân mười phân thẹn thuồng. (18)
– Lý qua đèo (Lý hoài nam):
Chiều chiều dắt mẹ… dắt mẹ (ta la) đèo qua đèo (ta la) đèo qua đèo. Chim kêu chim kêu (tình như) bên nớ úy óa, chi rứa chi rứa, ơi hỡi vượn trèo, vượn trèo (ta la) kia bên kia (ta la) kia bên kia. Ơi hỡi vượn trèo (ta la) kia bên kia. (19).
Ngoài ra còn có một số bài lý khác như Lý tử vi (Lý trăm huê), Lý ngựa ô, Lý tình như, Lý tiểu khúc, Lý giao duyên, Lý quỳnh tương, Lý vọng phu…
Bên cạnh các bài ca lao động và sinh hoạt, còn có các bài gắn với đời sống tâm linh, thể hiện trong các nghi lễ tín ngưỡng dân gian và tôn giáo. Đó là loại nhạc lễ, một diễn xướng âm nhạc, trong đó quan trọng là thanh nhạc, khí nhạc chỉ là phụ họa. Ở môi trường này, các bài hát là thành phần quan trọng trong cấu trúc buổi lễ. Chẳng hạn hát bả trạo trong lễ cầu ngư. Đây là loại hình múa hát nghi lễ của cư dân duyên hải miền Trung, phổ biến ở các tỉnh từ Quảng Bình đến Bình Thuận.
Một loại hát quan trọng trong tín ngưỡng thờ Mẫu của người Huế là hát chầu văn. Đó là sự diễn xướng các bài văn hầu, nghĩa là hát văn hầu để hầu bóng, để thỉnh mời thiên tiên thánh mẫu hay một vị thánh thần nào đó giáng xuống trần, hóa thân vào «con đồng» để phán bảo. Người hát các bài văn hầu gọi là cung văn, diễn xướng các bài thơ lục bát và song thất lục bát bằng âm Hán Việt hoặc đôi khi tùy vai đồng đang múa gì mà linh hoạt ứng tác cho phù hợp. Các bài văn hầu khuôn mẫu thường có văn phong và ngôn ngữ quý phái, đài các của văn chương cổ điển được các nhà trí thức Nho học sáng tác.
Tín ngưỡng dân gian Huế đi liền với tôn giáo ở Huế. Đó là mối quan hệ biện chứng. Trong tâm thức người bình dân Việt Nam, Trời đi liền với Phật, Phật đi liền với thánh. Các am điện thờ thánh, Mẫu ở Huế thường có thờ tượng Phật, tượng Quan Âm Bồ Tát. Chính trong tâm thức đó, Phật giáo ở Huế được phổ biến với pháp môn Tịnh độ, chủ trương tụng kinh niệm Phật để cầu giải thoát. Về mặt âm nhạc, Phật giáo cho ta nhiều âm điệu qua lời kinh tiếng kệ, qua phong cách tán tụng – những âm điệu đặc thù trong âm nhạc Phật giáo tại Huế.
Nhìn chung, âm nhạc dân gian Huế khá phong phú với nhiều thể loại, từ hò, vè, hát, lý đến các áng văn hầu cúng khuôn mẫu, các bài văn ai ứng tác bi thiết, các bài kinh kệ, tán tụng, bài chú của Phật giáo đã làm cho âm nhạc Huế thấm đẫm sắc thái văn hóa độc đáo của một vùng đất văn vật, góp phần làm giàu cho văn hóa âm nhạc Việt Nam.
Có điều đơn giản mà mọi người dễ nhận ra chính là âm điệu đặc trưng của giọng nói địa phương trở thành thổ ngữ rất riêng mà người nơi khác khó bắt chước. Và tất nhiên âm nhạc sản sinh từ giọng nói đó cũng tạo ra sắc thái riêng trong thang âm của nền âm nhạc Huế. Chính từ sắc thái riêng này mà đã có ý kiến khác nhau khi bàn về thang âm trong âm nhạc Huế. Phần lớn ý kiến cho rằng thang âm Huế không nằm ngoài hệ thống thang âm ngũ cung của Việt Nam, nhưng cũng có ý kiến cho rằng âm nhạc Huế thuộc về thang âm thất cung thiên nhiên. Vậy thang âm trong âm nhạc Huế là ngũ cung hay thất cung thiên nhiên tức là thất cung có 7 cung đều nhau.
Năm 1961, nhạc sĩ Nguyễn Hữu Ba cho in ronéo tập sách Nhạc pháp Việt Nam, trong đó có đề cập «hệ thống cung âm trong âm giai thiên nhiên Việt Nam» và cho biết thang âm này chính là thang âm gồm 7 cung đều nhau. Đó là thang âm đặc biệt của miền Trung, rõ hơn là của vùng Thừa Thiên – Huế, nhất là khi nghe những bài như Nam ai, Nam bình, Tứ đại cảnh… Giáo sư Trần Văn Khê nhất trí với khái niệm này, tuy ông không đồng ý với thuật ngữ «âm giai thiên nhiên Việt Nam». Sau này giáo sư đọc thêm tài liệu về âm nhạc cổ truyền Thái Lan của nhà nghiên cứu Carl Stumpf, về âm nhạc Campuchia và Lào của Alain Daniélou cũng như nghe các bản thu âm tại các làng quê Thái Lan và Campuchia của Jacques Brunet đều nhận ra ở các nơi này đều có thang âm 7 cung đều nhau. Trong tác phẩm La musique du Cambodge et du Laos (Pondichéry, 1957), ông A.Daniélou cho rằng thang âm thất cung này thông dụng ở Ấn Độ từ thế kỷ thứ VI, người Ấn gọi là thang âm nhà trời, thang âm thần thánh (gamme céleste, gamme sacrée). Từ Ấn Độ, thang âm thất cung có 7 cung đều nhau này truyền sang đến các nước Myanmar, Thái Lan, Campuchia, Lào, miền Trung Việt Nam và có thể có ở Indonesia nữa (20).
Thật ra việc chia một quãng tám làm 7 cung đều nhau chỉ là nói trên lý thuyết. Về mặt âm học, việc phân chia này rất khó. Chẳng hạn một quãng tám của Tây phương gồm 5 cung và 2 bán cung, mỗi cung đo được 9 commas, như vậy một quãng tám có 54 commas. Đem 54 commas chia cho 7 thì chỉ có được con số lẻ 7,71 commas. Hoặc tính quãng tám theo nhà vật lý Anh Alexander Ellis gồm 1.200 cents thì khi chia cho 7 vẫn là số lẻ 171,45 cents. Thành thử cao độ mỗi âm bậc trong âm nhạc của ta chỉ có giá trị tương đối thôi
Để hình dung thang âm có 7 cung đều nhau, giáo sư Trần Văn Khê đã so sánh thang âm này với thang âm Tây phương với biểu đồ sau đây (mỗi bán cung gồm 100 cents) (21):
Trên thực tế việc xác định cao độ của mỗi cung một cách tỉ mỉ thì rất khó, các nghệ nhân miền Trung chỉ có thể phân biệt các âm bậc xự và cống non một chút, âm xê cũng hơi non, còn đàn các bài điệu Nam thì xang phải già một chút. Trong trình diễn, các nghệ nhân Huế thường lên dây đàn theo thang âm ngũ cung; để có những âm bậc non hoặc già, họ dùng kỹ thuật nhấn (bên cạnh các kỹ thuật vuốt, vỗ, rung…) để thay đổi cao độ. Chẳng hạn lấy hò ấn xuống để nâng cao độ lên xự non hoặc xự, lấy xê ấn xuống để có cống non, lấy xang ấn xuống để có xang già… Đó là lối mượn cung trong kỹ thuật đánh đàn Huế.
Trong âm nhạc truyền thống Việt Nam, hệ thống định âm của ta không trùng khớp với hệ thống bình quân luật trong âm nhạc cổ điển Tây phương, nghĩa là thang âm Việt không cấu thành từ hệ thống 12 bán cung của một quãng tám như trong nhạc Tây phương. Sự khác biệt về hệ thống định âm này chính là do sự thẩm âm riêng biệt mang bản sắc dân tộc của cư dân từng khu vực, từng quốc gia khác nhau. Một đặc điểm khác là cao độ của mỗi âm bậc trong nhạc Việt chỉ có tính cách tương đối, âm bậc chuẩn chỉ mang tính quy ước trong từng điệu thức, từng hơi nhạc, tùy bài bản và tùy ở mỗi vùng miền khác nhau. Các kỹ xảo trong diễn tấu (nhấn, rung, vuốt, mổ…) trên từng âm bậc của thang âm đã tạo nên hệ thống các hơi nhạc phong phú của âm nhạc Việt Nam.
1. Điệu Bắc
Với âm nhạc Huế, chúng ta có một hệ thống thang âm ngũ cung khá độc đáo. Trước tiên là thang âm cơ bản, là sự kế thừa thang âm Đại Việt lâu đời từ trong lịch sử, đó là điệu Bắc (người Huế – người trên đất Thuận Hóa cũ – còn gọi là điệu Khách), tương đương với cung hoàng chung (cung thương giốc chủy vũ) trong âm nhạc Trung Hoa:
Chúng ta dễ dàng tìm thấy thang âm này trong phần lớn bài bản âm nhạc cung đình và ca nhạc thính phòng. Điệu Bắc chính là dấu ấn của ảnh hưởng Trung Hoa trong nhạc Việt, tuy vậy điệu thức của người Việt vẫn có ngôn ngữ riêng với cách nhấn nhá ở các âm bậc xự, cống với kỹ thuật rung đặc trưng và âm bậc cống cũng đàn hơi non. Điệu Bắc mang tính chất vui tươi, trang nghiêm, tốc độ thường là khoan thai hoặc nhanh, ít khi chậm, thường được dùng trong các buổi tế lễ long trọng, chẳng hạn bài Long ngâm dùng trong những lúc rót rượu cúng tế; bài Man (trong nhạc Bả lệnh) của dàn Đại nhạc dùng trong lễ rước vua hay đón sứ thần, nghe dồn dập, sôi nổi, vui tươi, dùng nhiều đảo phách, chủ âm được thay đổi nhiều lần nên nét nhạc rất uyển chuyển; bài Mã vũ dùng trong điệu múa Lân mẫu xuất lân nhi, thể hiện tình cảm thân thiết, trìu mến; Đăng đàn cung do dàn Đại nhạc diễn tấu cũng thuộc nhạc nghi lễ; mười bản Tàu trong ca Huế…
Đăng đàn cung – Quốc thiều nhà Nguyễn – Thang âm ngũ cung
Theo giáo sư Trần Văn Khê, trong nhạc Việt, tất cả các bài thuộc điệu Bắc đều có bảy yếu tố cơ bản: có thang âm ngũ cung với âm bậc cơ bản là hò (do); bất kỳ âm bậc nào trong thang âm ngũ cung đều có thể dùng làm bậc khởi đầu, bậc kết thúc hoặc bậc ngơi nghỉ. Bài Lưu thủy bắt đầu bằng âm hò và kết thúc cũng âm hò, còn các bài điệu Bắc khác lại không bắt đầu bằng âm hò. Chẳng hạn, bài Cổ bản bắt đầu bằng âm xê (sol), bài Long đăng bắt đầu bằng âm ú (re)… Phần lớn các bài nhạc Việt đều kết thúc bằng âm hò (do) hoặc âm xang (fa). Nhưng các âm khác cũng có thể dùng để kết thúc, ví dụ Nguyên tiêu kết thúc bằng âm cống (la), Kim tiền bằng âm xự (re); có tốc độ khoan thai hoặc nhanh; các câu nhạc trong điệu Bắc có độ dài thay đổi, số ô nhịp trong bài thường là chẵn, trừ trường hợp những bài quá ngắn như Xuân phong, Long hổ; nhạc công diễn tấu điệu Bắc đều có những nốt hoa mỹ để luyến láy; các nhạc cụ như đàn tranh hoặc đàn nguyệt đều lên dây theo hệ thống dây Bắc; tất cả bài bản điệu Bắc đều mang tính chất vui tươi. (22)
2. Điệu Nam
Điệu này xuất hiện từ khi dòng người Việt đi về phương Nam vào đất mới. Họ mang theo ngôn ngữ, phong tục, tập quán và cả âm nhạc. Tuy nhiên trong quá trình sinh hoạt và giao lưu văn hóa với người bản địa, người Việt đã chịu ảnh hưởng của người Chăm. “Có thể trong dĩ vãng, người Việt ở miền Bắc vốn quen dùng ngũ cung đúng ( do re fa sol la), khi Nam tiến đã bị nhạc Chàm với ngũ cung oán (do mi fa sol la) quyến rũ rồi sáng tạo ra ngũ cung ai (do, re non, fa già, sol, la non) chăng?” (23). Điều dễ nhận ra là ảnh hưởng trong giọng nói, ngôn ngữ. Chẳng hạn thanh sắc và thanh ngã của người Huế khi phát âm đã hạ thấp hơn, thanh hỏi lại cao hơn so với miền ngoài, có người cho đó là giọng lơ lớ. Chính âm thanh lơ lớ này đã hình thành điệu Nam trong nhạc Huế:
Trong thang âm này hai âm bậc hò và xê không thay đổi so với điệu Bắc, các bậc còn lại đều có thay đổi để làm nên sắc thái riêng của điệu thức miền Trung, trong đó hò và xang dùng kỹ thuật rung.
Nói đến hai điệu Bắc và Nam để khẳng định nguồn ảnh hưởng của Trung Hoa và Chăm trong nhạc Việt. Tuy nhiên trong âm nhạc Huế, với kỹ thuật rung hai bậc xự, cống, điệu Bắc đã được Việt hóa, không còn là của Trung Hoa nữa. Ngoài ra người Huế đã sáng tạo thêm một cách tinh tế và phong phú các sắc thái đặc thù trong âm nhạc của mình mà người Huế gọi là hơi nhạc. Đó là sự vận dụng tài tình ngôn ngữ âm nhạc để giãi bày các trạng thái tình cảm, nội tâm trữ tình và đa dạng của họ.
3. Các hơi nhạc
Âm nhạc Huế gồm có các hơi nhạc sau: hơi ai, hơi xuân, hơi oán, hơi dựng, hơi thiền.
– Hơi ai dùng để diễn tả sự buồn thương, áo não, những tình cảm luyến tiếc, mất mát, thở than, tốc độ chậm rãi. Chính vì tính chất này, hơi ai không dùng trong âm nhạc cung đình mà thường được dùng trong ca nhạc thính phòng Huế, nhiều khi cũng được dùng trong âm nhạc cúng tế, trong tang lễ. Ví dụ các bài Nam ai, Nam bình, Tương tư khúc… Hơi ai có thang âm như sau:
Âm bậc xư và cống giảm xuống gần ¼ cung, âm xang rung. Nếu chuyển cung dùng âm cống (la) làm chủ âm (hò), thang âm này sẽ là:
la do re mi sol la
Ông Thái Văn Kiểm trong sách Cố đô Huế dẫn lời cụ Ưng Bình Thúc Giạ Thị nói chính chúa Minh là người đã sáng tác bài Ai giang nam, tức Nam ai. Chúa Minh chính là Nguyễn Phúc Chu (1691-1725). Như vậy có thể bài Nam ai xuất hiện vào đầu thế kỷ 18, giai điệu buồn bã nhưng không quá não nuột như các bài hơi oán Nam bộ:
Ngoảnh lui cố quốc
Ngập ngừng gót ngọc
Mây phủ kín trời thương
Ngơ ngẩn bâng khuâng
Hoa đang độ thanh xuân
Dập vùi cứu mạng muôn dân
Không sánh đặng Chiêu Quân
Cho trọn đạo quân thần
Vẻ chi một đóa yêu kiều diễm lệ…(24)
Bài Nam bình cũng là hơi ai, có lời cổ là Nước non ngàn dặm ra đi nói về công chúa Huyền Trân nhưng giai điệu tươi tắn hơn, có tính chất tao nhã hơn:
Nước non ngàn dặm ra đi/ Cái tình chi
Mượn màu son phấn/ Đền nợ Ô Ly
Đắng cay vì đương độ xuân thì…(25)
– Hơi xuân có thể tìm thấy trong âm nhạc cung đình Huế, âm nhạc tuồng và nằm trong hệ thống điệu Bắc. Thang âm của nó là:
Nghệ nhân đàn tranh thường mắc dây với âm hò là sol thì thang âm này sẽ là:
sol la do re mi sol
Tuy nhiên hơi xuân Huế có thủ pháp nhấn rung đặc biệt là âm bậc xang và liu thường rung nhấn lên khoảng một cung rồi trở về âm bậc chính. Âm bậc xự và cống rung như điệu Bắc. Âm bậc xê dùng kỹ thuật mổ (nhấn rồi thả thật nhanh). Có khi hơi xuân lại xuất hiện âm bậc phàn cao hơn âm bậc cống một chút. Hơi xuân có trong bài Thài bát dật (đệm cho điệu múa Bát dật trong cung đình), bài Nam xuân (khác bài Nam xuân trong nhạc tài tử Nam bộ có thang âm là hò y xang xê phàn liu), thường mang tính chất đĩnh đạc, uy nghiêm và tươi vui hơn hơi ai (26):
Nhắn nhe vườn hạnh, đợi chờ chim xanh
Khéo đưa tình,
Đưa tình, đưa lại cho ta, lại cho ta
Trót đã mặn mà, đã gần xin bạn đừng xa
Sớm đào tối mận lân la
Trước còn trăng gió (còn trăng gió) sau ra đá vàng. (27)
– Hơi oán diễn tả điệu buồn sâu xa, có tính chất oán thán. Oán tự nguồn gốc là âm cống (la) trong bài Chinh phụ, thuộc điệu Nam trong nhạc Huế. Trong bài này, tất cả âm cống phải đọc thành oán, theo Hoàng Yến trong bài viết La musique à Huê, B.A.V.H tháng 7-8.1919 (28). Hơi oán phần lớn được sử dụng trong đờn ca tài tử Nam bộ, tuy vậy trong ca nhạc Huế cũng có hơi này nhưng thang âm có khác biệt, như trong các bài Tứ đại oán, Chinh phụ… thang âm của nó như sau:
Âm bậc cống trong hơi này được gọi là oán, vào hơi nhạc thì đọc trại ra là oan.
– Hơi dựng là sự chuyển điệu từ hơi này sang hơi khác, nghĩa là trong khi diễn tấu điệu này lại chen vào những đoạn theo điệu khác, tuy vậy những đoạn chen vào đó chỉ là tạm thời để rồi trở về điệu chính. Hơi dựng có trong các bài Hành vân, Tứ đại cảnh, Cổ bản dựng, Quả phụ…
– Hơi thiền được tìm thấy ở những bài chịu ảnh hưởng các bài kệ, bài tán và tụng trong âm nhạc Phật giáo. Theo nhạc sĩ Vĩnh Phan, hơi thiền cũng là hơi khách (Bắc). Trong một bài hơi khách có hai cung y, phàn (mi, sib) thì dĩ nhiên có chuyển hệ; trong một bài hơi khách mà hai cung xự, cống luôn có mặt trong dứt câu hay ở đầu ô nhịp, lúc đánh cho ta cảm giác một âm giai thứ hoặc dùng cả hai cung y, phàn nữa thì hơi đó nhất định là hơi thiền:
Có thể tìm thấy hơi thiền trong bài tán Dương chi tịnh thủy, ca ngợi Phật Quan âm (riêng bài tán Nhất điện lại theo hơi ai). (30)
4. Thang âm ngũ cung trong âm nhạc dân gian Huế thì tương đối thuần nhất hơn. Các bài dân ca chủ yếu sử dụng thang âm ngũ cung điệu Nam của âm nhạc Huế.
Trước hết là các điệu lý: «Có thể nói tất cả những bài lý của Trị Thiên dù dưới những tên gọi khác nhau, làn điệu khác nhau, hát bằng ngũ cung hơi Nam giọng ai (do, re non, fa già, sol, la non) là ngũ cung độc đáo của địa phương» (31). Đó cũng là thang âm của các bài hò, ngâm… “Năm cung bậc ở đây cũng thay đổi và không giống ngũ cung Bắc và ngũ cung oán: do re (non) fa (rung) sol la (non). So với ngũ cung Bắc và oán, hệ thống năm cung ở vùng Huế đã khác hẳn: cung re bị lơ lớ, cung fa không ở một vị trí nhất định, cung la cũng bị non đi” (32). Riêng đối với điệu hò mái đẩy, nhạc sĩ Phạm Duy đã tìm hiểu thang âm điệu hò này (năm 1953) và đem so sánh với thang âm điều hòa Tây phương như sau:
Như vậy các quãng của hò mái đẩy là:
1,5 + 3,5 + 1,5 + 2 + 3,5 bán cung. (33)
Điệu hát chầu văn, mà Phạm Duy gọi là thể ca nhạc phù phép (incantation), thường rất chú trọng đến văn, tức là những bài thơ lục bát, song thất lục bát do những người có học sáng tác, bởi có nhiều từ Hán Việt hoặc sử dụng sự tích, điển cố văn học. Tùy theo nghi lễ từ phụng thỉnh chư thánh đến lúc người ngồi đồng nhập bóng, các cung văn lập tức đổi giọng, đổi văn, nghĩa là đổi bài tụng ca, tán ca và đổi điệu nhạc. Chẳng hạn với các bài thỉnh chư thần, dâng hoa, dâng nước, khi đệ tử lễ bái, cung văn diễn xướng:
Rượu này rượu thánh rượu tiên,
Tôn ông đà nhắp cạn, xin dâng liền tuần hai
Thủ am quỳ trước kim giai
Xin tôn ông phù hộ cho phát tài hanh thông. (34)
… Hoa quả dâng lên dâng trà, hoa quả dâng lên
Lòng tin Phật đức chúa là tiên (ư ư) cửu trùng…
Mày liễu tốt tươi mặt chầu ba mày liễu tốt tươi
Hình dung bao sắc miệng cười nở hoa. (35)
Trong các bài văn hầu này cung văn sử dụng giọng đài. Âm nhạc mà cung văn diễn xướng chạy trên thang âm ngũ cung re fa sol la do. Khi qua một đoạn khác, chẳng hạn:
Giá vũ một thôi ngài đằng vân giá vũ một thôi
Thiên đình phút đã ngài xuống nơi dương đình
Ba ngàn thế giới cảnh thanh.
Thế giới cảnh thanh ba ngàn thế giới cảnh thanh
Đâu đâu đều cũng chí thành lòng tin
Tiểu chúng tôi cầu đảo (ư ư) khấn nguyền… (36)
thì âm nhạc lại chuyển sang thang âm điệu Nam hơi ai: la do re mi sol. Đây chính là hiện tương chuyển hệ (métabole) trong nhạc Việt.
Với bài văn hầu Thánh mẫu thượng ngàn :
Nền linh hiển ngàn xưa chung tú
Riêng một tòa động phủ thiên nhiên
Vốn xưa chúa ở cung tiên
Giáng trần độ thế về miền non xanh. (37)
… Đài Minh cảnh lung lay bóng nguyệt
Cung Quảng hàn mờ mịt thức mây
Chiều chiều gió thổi rung cây
Mùi hơi chim nói thú ngàn mây rộn ràng
Thú núi non chúa Thượng ngàn…(38)
Cung văn hát trên thang âm giọng đài: re fa sol la do, nhưng đến đoạn sau:
Đêm thâu múa hát trong đêm tựa ngày
Ngọn đèn ngọn đèn khêu bấc (?) thơ mượn làm vui
Ban mai gió cuộn trăng lờ
Chiếc thuyền ven suối lững lờ lờ trôi. (39)
thì cung văn chuyển sang thang âm: la do mi sol la. Như vậy trong hát chầu văn Huế thường sử dụng bộ thang âm ngũ cung như sau:
***
Âm hưởng nhạc Huế theo bước chân người Việt dần tiến về phương Nam đã tạo nên hai loại hình âm nhạc có tên tuổi là đờn Quảng và đờn ca tài tử Nam bộ. Có thể nói đây là hai loại nhạc có nguồn gốc từ âm nhạc Huế mà ra.
Tất cả các loại hình âm nhạc cung đình, ca Huế, đờn Quảng, đờn ca tài tử Nam bộ đã tạo thành nền âm nhạc cổ điển Việt Nam mang tính chất đặc thù, có màu sắc riêng biệt không thể nhầm lẫn với âm nhạc một nước nào trong khu vực. Chúng ta tự hào về giá trị nền âm nhạc này, cho nên nhiệm vụ của chúng ta là phải bảo tồn và phát triển những giá trị tinh thần quý báu ấy.
Nhạc sĩ Nguyễn Phú Yên
Tác giả gửi Trí Thức VN
Chú thích:
(1) Lê Quý Đôn, Vân đài loại ngữ, tập II, quyển VI, mục âm tự, Sài Gòn, 1972, tr. 133.
(2) Nguyễn Xuân Khoát, Hò, tạp chí Âm Nhạc, Hà Nội, số 4, tháng 10 và 11-1956, tr. 11.
(3) Trần Văn Khê, Các loại nhạc Việt Nam, tạp chí Bách Khoa, Sài Gòn, số 41, 1958, tr. 21.
(4) Lê Văn Chưởng, Đặc khảo hò Huế, NXB Thuận Hóa, 2000, tr. 49.
(5) Nguyễn Viêm sưu tầm và ghi âm, in trong Dân ca Việt Nam, NXB Văn Hóa, Hà Nội, 1976, tr. 160-162.
(6) Nguyễn Hữu Ba, Dân ca Việt Nam, Bộ Quốc gia Giáo dục, Sài Gòn, 1961, tr. 52.
(7) Nguyễn Hữu Ba, sđd, tr. 50-51.
(8) Lê Văn Chưởng, sđd, tr. 52.
(9) Nguyễn Hữu Ba, sđd, tr. 60-61.
(10) Nguyễn Viêm, sđd, tr. 163.
(11) (12) (13) Lê Văn Chưởng, sđd, tr. 56-58.
(14) Lê Quang Thái, Bài học lịch sử quý giá từ Vè thất thủ kinh đô, tạp chí Sông Hương, Huế, tháng 5-2010, tr. 80-81.
(15) Nguyễn Hữu Ba, sđd, tr. 32.
(16) Nguyễn Hữu Ba, sđd, tr. 35.
(17) (18) Nguyễn Hữu Ba, sđd, tr. 44-45.
(19) Nguyễn Hữu Ba, sđd, tr. 62.
(20) Trần Văn Khê, Vài ý kiến về thất cung thiên nhiên và việc dùng comma để đo cung bực trong nhạc Việt, Nghiên Cứu Việt Nam, Huế, số 3 mùa thu 1966, tr. 10.
(21) Trần Văn Khê, bài đã dẫn, tr. 14.
(22) Trần Văn Khê, La musique vietnamienne traditionnelle, PUF, Paris, 1962, tr. 217.
(23) Phạm Duy, Đặc khảo về dân nhạc ở Việt Nam, NXB Hiện Đại, Sài Gòn, 1972, tr. 37.
(24) Trần Kiều Lại Thủy, Âm nhạc cung đình triều Nguyễn, NXB Thuận Hóa, Huế, 1997, tr. 158. Bài Nam ai do Đào Quý Duy ghi âm.
(25) Trần Kiều Lại Thủy, sđd, tr. 161. Bài Nam bình do Đào Quý Duy ghi âm.
(26) Trần Kiều Lại Thủy, sđd, tr. 219.
(27) Văn Thanh, Tìm hiểu ca Huế và dân ca Bình Trị Thiên, Sở Văn hóa- thông tin Bình Trị Thiên, 1989, tr. 55.
(28)Trần Văn Khê, La musique vietnamienne traditionnelle, PUF, Paris, 1962, tr. 244.
(29) Vĩnh Phan, Vài ý kiến về các hơi nhạc cổ truyền Huế, Nghiên Cứu Việt Nam, Huế, số 1 mùa xuân 1966, tr. 18.
(30) Trần Văn Khê, Phong cách tán tụng trong Phật giáo Việt Nam, báo Giác Ngộ, TP.HCM, số 59 năm 2001.
(31) Tôn Thất Bình, Dân ca Bình Trị Thiên, NXB Thuận Hóa, Huế, 1997, tr. 32.
(32) Phạm Duy, sđd, tr. 52.
(33) Trần Văn Khê, sđd, tr. 209.
(34) Trần Đại Vinh, Tín ngưỡng dân gian Huế, NXB Thuận Hóa, Huế, 1995, tr. 211.
(35) (36) CD Chầu văn Huế (trực tiếp ghi âm tại một buổi lễ chầu văn tại Đà Nẵng năm 1973 do cung văn Nguyễn Văn Hối diễn xướng – tài liệu riêng của người viết).
(37) Trần Đại Vinh, sđd, tr. 206.
(38) (39) CD Chầu văn Huế, đã dẫn.
Tài liệu tham khảo:
1. Walter Wiora, Les quatre âges de la musique, Petite Bibliothèque Payot, Paris, 1963.
2. Kurt Pahlen, La grande aventure de la musique, Collection Marabout, Belgique, 1947.
3. George Soulié de Morant, Théâtre et musique modernes en Chine, Paris, 1926.
4. Phạm Đình Hổ, Vũ trung tùy bút, bản dịch của Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến, NXB Văn Nghệ TP.HCM, 1989.
5. Trần Văn Khê, La musique vietnamienne traditionnelle, PUF, Paris, 1962.
6. Lê Mạnh Thát, Lịch sử âm nhạc Việt Nam, NXB TP.HCM, 2001.
7. Lê Văn Chưởng, Dân ca Việt Nam- những thành tố của chỉnh thể nguyên hợp, NXB Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 2004.
8. Tô Ngọc Thanh, Tư liệu âm nhạc cung đình Việt Nam, NXB Âm nhạc- Viện Âm nhạc, Hà Nội, 1999.
9. Minh Lương, Tìm hiểu âm giai ngũ cung, Sài Gòn, 1968, bản ronéo.
10. Trần Kiều Lại Thủy, Âm nhạc cung đình triều Nguyễn, NXB Thuận Hóa, Huế, 1997.
11. Toan Ánh, Tìm hiểu nghệ thuật cầm ca Việt Nam, NXB Đồng Tháp, 1998.
12. Phạm Duy, Đặc khảo về dân nhạc ở Việt Nam, NXB Hiện Đại, Sài Gòn, 1972.
13. Nhiều tác giả, Thang âm điệu thức trong âm nhạc truyền thống một số dân tộc miền Nam Việt Nam, Viện Văn hóa nghệ thuật tại TP.HCM, 1993.
14. Thái Văn Kiểm, Cố đô Huế, Sài Gòn, 1960.
15. Văn Thanh, Tìm hiểu ca Huế và dân ca Bình Trị Thiên, Sở Văn hóa-thông tin
Bình Trị Thiên, 1989.
16. Tôn Thất Bình, Dân ca Bình Trị Thiên, NXB Thuận Hóa, Huế, 1997.
17. Trần Đại Vinh, Tín ngưỡng dân gian Huế, NXB Thuận Hóa, Huế, 1995.
18. Lê Văn Chưởng, Đặc khảo Hò Huế, NXB Thuận Hóa, Huế, 2000.
19. Văn Minh Hương, Gagaku và nhã nhạc, NXB Thanh Niên, Hà Nội, 2003.
20. Đình Hy, Trượng Tốn, Nhạc cụ truyền thống tộc người Chăm, tập 1, Sở Văn Hóa-thông tin tỉnh Ninh Thuận, 1996.
21. Lê Ngọc Canh, Tô Đông Hải, Nghệ thuật biểu diễn truyền thống Chăm, NXB Văn Hóa Dân Tộc, Hà Nội, 1995.
22. Trần Quang Hải và Hoàng Ngọc Tuấn, Trao đổi về âm nhạc ngũ cung (Internet).
23. Các bài dân ca Việt Nam do Lưu Hữu Phước, Nguyễn Viêm, Đào Việt Hưng, Lư Nhất Vũ… sưu tầm và ký âm.
24. Trần Văn Khê, Vài ý kiến về thất cung thiên nhiên và comma, Nghiên Cứu Việt Nam, Huế, số 3 mùa thu 1966.
25. Vĩnh Phan, Hơi nhạc cổ truyền Huế, Nghiên Cứu Việt Nam, Huế, số 1 mùa xuân 1966.
26. Nguyễn Hữu Ba, Dân ca Việt Nam, Bộ Quốc gia giáo dục, Sài Gòn, 1961.
27. Triều Nguyên, Hò đối đáp nam nữ Thừa Thiên-Huế, NXB Thuận Hóa, Huế, 1997.
28. Ngô Quốc Tính, Mã Giang Lân, Ngô Thảo, Nguyễn Văn Dinh, Hải Đường, Lê Văn Hảo, Phạm Thị Tịnh Muội, Một số câu hò miền Trung, Nghiên Cứu Việt Nam, Huế, số 1 mùa xuân 1966.
29. Trần Văn Khê, Les musiques de l’Extrême-Orient, Nghiên Cứu Việt Nam, Huế, số 5-6 mùa xuân mùa hè 1967.
30. Trần Văn Khê, Phong cách tán tụng trong Phật giáo Việt Nam, báo Giác Ngộ, TP.HCM, số 59 năm 2001.
31. Lê Văn Hảo, Góp phần tìm hiểu ca nhạc Huế, Văn Nghệ Bình Trị Thiên, số 9, 1977
32. Minh Hải, Tìm hiểu vẻ đẹp của nền ca nhạc truyền thống Bình Trị Thiên, Văn Nghệ Bình Trị Thiên.
33. Lê Văn Cần, Ý kiến về ca nhạc Huế, ghi chép riêng.
34. Đồng Thành, Bước đầu tìm hiểu về âm nhạc Phật giáo (phattuvietnam.org)
35. Thiện Phước (soạn dịch), Âm nhạc Phật giáo (thuvienhoasen.org).
36. Phạm Minh Khang, Thang âm điệu thức trong âm nhạc truyền thống Việt Nam (vanchuongviet.org).
37. Dương Bích Hà, Âm nhạc cổ truyền xứ Huế trong mối quan hệ bác học và dân gian, tạp chí Sông Hương, Huế, số 125, tháng 7-1999.
38. DVD Nhã nhạc – Âm nhạc cung đình Huế, kiệt tác di sản phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại, NXB Âm nhạc, Trung tâm Bảo tồn di tích cố đô Huế, Nhà hát Nghệ thuật truyền thống cung đình Huế sản xuất, 2007.
Xem thêm bài viết cùng tác giả:
Mưa lớn kéo dài những ngày qua khiến một số điểm ở huyện miền núi…
Hôm thứ Bảy (23/11), tổng thống Nga Vladimir Putin đã ký một luật mới cấm…
Cuối ngày làm việc với Công an huyện Long Thành (tỉnh Đồng Nai), người đàn…
Nghiên cứu được công bố trên tạp chí Cell Metabolism (Chuyển hóa Tế bào) cho…
Các nghiên cứu khác đã chỉ ra rằng số ca tử vong do ung thư…
Chính quyền Biden có thể công bố các hạn chế xuất khẩu mới sang Trung…