Từ xưa đến nay lập chí thì dễ, thực hiện mới khó, thực hiện thì dễ, giữ gìn thành quả mới khó. Trong “Kinh thi. Đại nhã. Đãng” viết rằng mọi người làm việc thường có cái tâm chí cao xa nhưng rất ít người có thể kiên trì cái tâm ấy mà đạt được kết quả tốt đẹp, muốn trước sau vẹn toàn quả thực rất khó. Xưa nay, quân chủ trị quốc không thiếu người có tài, không thiếu người có thể nhất thời làm được tốt, nhưng để lại thành tựu trác tuyệt thì không nhiều, được xem là minh quân lại càng ít hơn, đây chính là vì không thể “trước sau như một”.
Trong lịch sử, Đường Thái Tông được xem là một vị minh quân, để lại cho đời sau cũng là một nền thái bình thịnh thế. Trong Trinh Quán Chính Yếu, Đường Thái Tông cùng Ngụy Trưng đã đàm luận về vấn đề “trước sau như một” này.
Đường Thái Tông vào năm thứ 9 Trinh Quán, đã đạt được nền thái bình thịnh thế, vì vậy trước đông đủ quần thần ông đã lập chí hướng sao cho triều Đường trở thành tấm gương của vạn thế mai sau. Vì điều này, ông khích lệ các quan lại kiên trì cho đến cuối cùng.
Trinh quán năm thứ 12, Đường Thái Tông nói với các quần thần:
“Ta thông qua đọc sách lịch sử, phát hiện các quân vương xưa kia làm việc thiện đều học theo, dùng sức lực của mình làm mà không biết mệt mỏi. Trẫm trọng dụng các khanh, theo lý mà nói cũng đều được tính là rất hiền đức. Nhưng không đạt được thịnh thế như thời đại Tam Hoàng Ngũ Đế, vì sao như vậy?”
Ngụy Trưng trả lời:
“Hiện tại các dân tộc thiểu số xung quanh đều thần phục, thiên hạ thái bình vô sự, xác thực là tự cổ chí kim đến nay đều chưa từng có việc trọng đại như vậy. Các hoàng đế thời xưa khi vừa mới lên ngôi, họ đều muốn nỗ lực trị quốc, chú trọng chính sự, noi theo gương Nghiêu, Thuấn, nhưng chính là đến lúc thiên hạ thái bình, giàu có an lạc, họ bắt đầu buông lỏng bản thân, xa hoa dâm dật, chưa có ai làm đến thận chung.
Còn về các thần tử, lúc mới được bổ nhiệm, đều ngưỡng mộ khí phách của các lương thần cổ đại, ôm trong lòng hoài niệm phụ tá quân vương, hoành nguyện tế thế cứu dân. Đến khi vinh hoa phú quý, họ bắt đầu để tâm vào việc làm thế nào mới có thể giữ được chiếc mũ ô sa, bảo toàn tính mệnh, cũng không có ai có thể thận chung với trách nhiệm của mình, thật sự lo cho nước cho dân.
Nếu như quân thần song phương đều có thể không lơ là chểnh mảng, ghi nhớ đạo lý thận chung, như thế có thể vô vi nhi trị, thiên hạ vô ưu, nếu làm được như vậy, tự nhiên có thể vượt qua người xưa”.
“Thận chung” chính là trước sau như một. Từ xưa đến nay đế vương làm việc thiện nhiều nhưng khó thận chung, quan lại cũng vậy, hoài bão thì nhiều nhưng ít ai lưu danh sử sách.
Đoạn lời nói giữa Đường Thái Tông và Ngụy Trưng Cho thấy nhiều vấn đề. Thứ nhất là tác dụng của sách sử thời xưa. Tuy rằng trong đoạn thoại này không đề cập đến việc Thái Tông đã đọc sách sử gì, cũng không đề cập đến vị vua cụ thể nào, mà là cảm nhận chung sau khi đọc sách lịch sử. Nhưng có thể thấy, những cuốn sách lịch sử sớm nhất là những kinh điển được Khổng Tử chỉnh lý, vô luận là “Thượng Thư” hay là “Xuân Thu”, đều biểu thị rõ rằng lịch sử là để chuyên ghi lại những lời nói, hành vi hay sự kiện của một triều đại hoàng đế hoặc các vua của nước chư hầu. Tận đến cuốn “Sử Ký” của triều đại nhà Hán mới hệ thống địa vị các quan đại thần và lập truyện cho những nhân vật điển hình trong dân gian. Dù vậy, “Đế Vương Liệt Truyện” vẫn được đặt ở vị trí cốt lõi và quan trọng nhất, gọi là bản kỷ, nghĩa là lịch sử căn bản nhất. Bởi vì xem chí hướng của người đứng đầu một đất nước, hay phương pháp điều hành quốc gia, thì có thể hiểu được đầu mối nguyên nhân dẫn đến hưng thịnh hay suy bại của một triều đại, cũng như hiểu được định hướng giá trị văn hóa nghệ thuật và đặc điểm văn hóa của dân tộc.
Thứ hai là Đường Thái Tông đọc sách lịch sử mà thấy được quân vương và thần tử đại đa số đều không hồ đồ. Quân vương đều đã được học hành, đều hiểu biết lịch sử, đều biết nhân nghĩa, hiểu và lựa chọn những người hiền đức. Còn quan lại tất có chí hướng tế thế cứu dân, hiểu và thi hành lấy đức trị quốc, vì thế, mới thu được thái bình. Có thể thấy trong lịch sử, hôn quân không nhiều, quan lại các đời đều có người trong sạch nhân nghĩa, hiểu phép tắc hành thiện. Nhưng dù vậy, không có người đạt đến trình độ “Thánh vương”. Chính là rất ít người kiên định đến cuối cùng, lưu danh sử sách.
Thứ ba là người xưa coi Tam Hoàng Ngũ Đế làm gương, là tôn chỉ làm người và trị quốc. Không có ai coi họ là “thủ lĩnh bộ lạc” cả. Đường Thái Tông là Hoàng đế Trung Nguyên, bao quát một mảnh đất rộng lớn như vậy, nhưng lại không hề có cách nhìn nhận Thánh nhân thiên cổ như kẻ đầu sỏ một nhóm người ăn lông ở lỗ. Ngày nay người làm lịch sử nhìn lịch sử, thường có hành động tự bôi nhọ hình tượng tổ tiên, hạ thấp tổ tiên của chính mình, thật đáng buồn.
Điểm cuối cùng chính là Ngụy Trưng hồi đáp nghi vấn của Thái Tông, khẳng định với Thái Tông về tính đúng đắn của việc lấy đức trị quốc, để Thái Tông không hoài nghi, chỉ để tâm kiên trì đi tiếp được, có “thận chung” hay không, có trước sau như một hay không, đó mới là khảo nghiệm lớn nhất, là điểm mấu chốt để có thể đạt được cảnh giới của Thánh vương, mở ra thịnh thế lý tưởng, vượt qua thành tựu của Hoàng đế các triều đại.
Đây chính là nguyên nhân người xưa ghi chép và đọc sách lịch sử: là vì để tu thân trị quốc. Nếu người hiện đại hiểu được điểm này và thực hiện thì có thể đắc được trí huệ lớn trong cuộc sống, có thể cải biến nhỏ như công ty, lớn như xã hội. Những công ty có thể truyền từ đời này qua đời khác, tồn tại mấy trăm năm không sụp đổ, cũng có nguyên nhân vì tuân thủ khế ước của xã hội, có tôn chỉ nghiêm ngặt, hình thức và phương pháp cụ thể trong kinh doanh có thể biến đổi, thậm chí nghiệp vụ có thể thay đổi, nhưng những tôn chỉ làm người giữ vững nhân nghĩa như thành tín, cống hiến vì xã hội, không thấy lợi mà quên nghĩa, v.v.. sẽ không thay đổi. Ai có thể kiên trì giữ vững nguyện ban sơ, coi sự nghiệp là nguyện ban sơ vì tạo phúc cho đại chúng, ai có thể giữ vững con đường kinh doanh đó, sẽ khiến cho công ty phồn vinh bất bại, đạo lý này cùng với đạo lý trị quốc không có gì khác nhau. Ngày nay có rất nhiều công ty phồn vinh nhất thời, kinh doanh một đời hai đời, rất nhanh, rất nhanh liền biến mất, nguyên nhân chính là không có tôn chỉ kinh doanh đúng đắn, dù là có đi chăng nữa, cũng không có kế thừa kiên trì. Giống như Ngụy Trưng nói, giàu có an vui rồi, liền bắt đầu buông thả bản thân. Không thể thận chung, tất nhiên sụp đổ và tiêu vong.
Trí huệ căn bản nhất của thời kỳ Trinh Quán chính là “làm được đến thận chung”. Đây là thành tựu huy hoàng, vượt trên nền thái bình thông thường của các Hoàng đế bình thường, chính là bài học lớn nhất mà thịnh thế Trinh Quán lưu lại cho người đời sau. Nó hoàn toàn không dựa vào kĩ thuật cao cấp và hệ thống pháp luật nghiêm ngặt hay những thủ đoạn cao minh ra sao.
Cũng nhờ có “Luận thận chung” này mà khi Thái Tông chỉ cần có chỗ nào không đúng, Ngụy Trưng sẽ chỉ ra, để Thái Tông ghi nhớ nguyện vọng của ông là thận chung. Trong Trinh Quán Chính Yếu có ghi lại một tấu chương của Ngụy Trưng viết gửi Thái Tông, đã nhắc nhở Thái Tông trên mười phương diện rằng ông đã bắt đầu có dấu hiệu buông thả, bản tấu này được ghi chép lại đầy đủ, không che đậy cho những sai lầm của Thái Tông, lời nói thẳng thắn, càng thể hiện rõ thêm sự thản đãng quang minh của Thái Tông. Thái Tông không phải là không có lỗi, mà điểm hơn người của ông là thái độ trước sau như một, dám nhìn thẳng và tiếp nhận sau khi bị chỉ ra sai lầm.
Dựa theo “Đàm luận về Trinh Quán Chính Yếu: Từ xưa đến nay đế vương làm việc thiện nhiều, nhưng khó thận chung”
Đăng trên ChanhKien.org
Tác giả: Lưu Như
Xem thêm:
Mời xem video:
Đội hình Phalanx gắn liền với những cuộc chinh phục của Alexander Đại Đế.
Phát biểu của bà Zakharova vào thứ Năm (21/11) mô tả Estonia và các quốc…
Xinh đẹp là một loại phúc báo, nhưng nhan sắc là yếu tố bên ngoài…
Nhà Hậu Trần giằng co cản bước quân Minh nam tiến sau khi Trương Phụ…
Ba vị đồ đệ trong Tây Du Ký có pháp danh lần lượt là Tôn…
Các sợi lông lỏng lẻo trên bề mặt vải có thể dễ dàng được loại…