(Tranh: Glibatree Art Designer)
Khi con ra đời, khoa học đã đạt được những bước tiến kỳ vĩ trên đường khám phá tự nhiên. Nhưng chìm trong nền kinh tế thị trường, mỗi bước tiến của khoa học đều kéo theo một bước lùi của con người với tư cách là một sinh vật trên đường tiến hóa. Khoa học tự nó không có tội, tội lỗi do chính sự ngạo mạn tưởng có thể dùng khoa học để “thế thiên hành đạo”.
Trong diễn từ nhận giải Nobel Kinh tế năm 1974, nhà kinh tế học Friedrick Hayek đã gây sốc khi tuyên bố những tri thức về kinh tế học hiện đại là “tri thức ngụy tạo”. Hayek cho rằng, từ những thành tựu ngoạn mục trong khoa học tự nhiên, người ta đã đem những phương pháp của vật lý học và toán học áp dụng trong lĩnh vực xã hội ngày càng rộng rãi với ảo tưởng có thể điều khiển được nền kinh tế và lèo lái xã hội vận hành theo ý chí chủ quan của mình. Ngay từ nửa đầu thế kỷ 20, ông đã cảnh báo “chủ nghĩa duy khoa học” sẽ gây tác hại khôn lường cho xã hội loài người. Sự sụp đổ của nền kinh tế kế hoạch Liên Xô và Đông Âu cũ cũng như sự khủng hoảng nợ công từ các nhà nước phúc lợi châu Âu đã minh chứng lời cảnh báo của Hayek.
Một viện sĩ khoa học khi chuyển qua nghiên cứu tôn giáo cũng từng nói: “Tôi biết khoa học rất vĩ đại, nhưng khoa học không dạy con người hành thiện”.
Nhưng các chính khách, nhất là các chính khách ở các nước lớn và các nhà tài phiệt thì không. Khoa học không chỉ được họ lạm dụng để giết người hàng loạt mà còn được sử dụng bừa bãi để kiếm lợi nhuận và dùng lợi nhuận nhân danh văn minh chọc thủng mọi thứ thành trì ở mọi quốc gia. Lòng tham, sự kiêu ngạo, tính thiển cận và thói bầy đàn của nhân loại luôn luôn tiếp tay cho việc lạm dụng khoa học. Hậu quả là trái đất ngày càng tiêu điều xơ xác, môi trường sống bị thu hẹp, loài người trở nên bệnh hoạn yếu ớt.
Sự lạm dụng khoa học mới nhất là sử dụng công nghệ sinh học để tạo ra thực phẩm biến đổi gen, bất chấp những phản đối của đông đảo các nhà khoa học, nó nhảy phóc vào siêu thị và nhanh chóng lan tràn ra khắp thế giới. Người ta đã dựa vào những tuyên bố nước đôi của Tổ chức Y tế Thế giới, rằng loại thực phẩm này phải được chứng nhận không có nguy cơ về sức khỏe với con người dựa theo các tiêu chuẩn về an toàn thực phẩm do tổ chức này thiết lập mới được đưa ra thương mại hóa.
Ngày xưa thời ba mẹ mới lớn, thuốc diệt côn trùng DDT từng được Tổ chức y tế Thế giới khẳng định là vô hại với con người và môi trường nên nó đã được đem phủ khắp hành tinh. Hàng chục năm sau, cũng chính tổ chức này khẳng định nó gây ra bệnh ung thư và hủy hoại môi trường. Amiăng cũng thế. Trước đây người ta sử dụng amiăng trắng trong việc sản xuất tấm lợp vật liệu xây dựng (fibro ximăng), nhưng về sau phát hiện nó là tác nhân gây ung thư. Các lệnh cấm đã ban ra, nhưng hậu quả thì hàng chục, hàng trăm năm chưa chắc đã khắc phục xong.
Những năm gần đây người ta nói nhiều về hạt nano vì chúng hiện diện khắp nơi từ kem chống nắng, kem đánh răng, hàng may mặc đến các loại sơn, chất chỉ thị trong chẩn đoán y khoa, trong các mạch điện tử… nói chung là trong các loại sản phẩm có thể tiếp xúc trực tiếp với cơ thể con người. Hạt nano phân tử là những hạt phân tử có kích thước bằng 1/100 kích thước một sợi tóc. Vì quá nhỏ nên người ta e sợ chúng có thể thâm nhập vào tất cả mọi thứ và cũng dấy lên nhiều mối quan ngại.
Trước hết là một dạng chất thải mới, không hề tồn tại trong môi trường và có thể gây hại cho sức khỏe con người. Các loại chất như nhôm, chì, titan dioxit hay như sắt oxit, với kích thước nano, có thể thâm nhập dễ dàng và tích tụ trong cơ thể, khi phân tán trong không khí, vốn dĩ có thể thâm nhập vào cơ thể qua đường hô hấp, gây ra các chứng dị ứng. Hiện tại chưa ai biết được tác động của các hạt nano mới lên các loài sinh vật.
Kiến thức của con người có thể là một phép màu nhưng cũng có thể là một vũ khí hủy diệt cá nhân và xã hội. Thiếu trái tim và lòng nhân ái, khoa học chỉ là một gã khổng lồ mù. Các nhà khoa học chân chính biết rõ giới hạn của tri thức nên họ ngày càng trở nên khiêm nhường trước tự nhiên. Nhà vật lý vĩ đại hàng đầu thế giới Newton cũng đã từng thú nhận: “Khoa học chỉ là một chút đá cuội và vỏ sò ngoài bãi biển”... Phần lớn, khám phá tự nhiên để chiêm ngưỡng vẻ đẹp vẹn toàn của nó, để thấy mình đáng sống vì mình là một thành tố của vẻ đẹp vẹn toàn. Nhiều trí thức đặt ra vấn đề với trí huệ là cảnh giới tâm hồn và hiểu bản chất của xung đột giữa kiến thức và lương tâm. Vì kiến thức nhằm mưu đồ lợi ích cá nhân còn lương tâm thì nhắm đến sự công bằng giữa mình và người khác. Có kiến thức có thể mang lại nhiều của cải nhưng người có lương tâm thì giàu an vui và thoát khỏi phiền não.
Ba nghĩ là trí thông-minh-thực-sự phải được hướng dẫn bởi lòng tử tế và lòng tốt, nghĩa là cái ý muốn và hành động phải đem lại hạnh phúc cho kẻ khác. Từ hạnh phúc của kẻ khác sẽ đem tới hạnh phúc cho mình. Nếu như nó không mang tới được hạnh phúc thì ít ra nó cũng không gây ra khổ đau cho người khác.
Trong đời sống không thiếu gì người thông minh mà chẳng mấy khôn ngoan hay có được cuộc sống thông minh. Nhiều khi chính kiến thức của họ biến họ thành nô lệ cho những vấn đề do mình tự tạo rồi không biết cách giải quyết. Tự đưa mình vào cạm bẫy và giam mình trong cái vòng lẩn quẩn.
Nhiều năm trước, các trí thức và chính trị gia của hầu hết các nước đang phát triển đều đưa ra khẩu hiệu sử dụng khoa học kỹ thuật để phát triển đất nước và đuổi theo các siêu cường. Một cuộc chạy đua không ngừng nghỉ. Và từ đó đến tận hôm nay, dường như nhân loại đang đứng trước nguy hiểm lớn nhất, chính vì khoa học kỹ thuật ngày càng tiên tiến thì dục vọng của con người ta ngày càng bành trướng thêm.
Lẽ ra sự phát triển của khoa học kỹ thuật là nhằm phục vụ cho sức khỏe của con người thay vì để thỏa mãn nhu cầu bệnh hoạn của một thiểu số. Người càng giàu dục vọng càng lớn. Nước càng giàu càng kiêu căng và tham vọng không ngừng để bá chủ hoàn cầu.
Thế là con người điên cuồng cướp đoạt mọi thứ từ Trái đất. Kết quả là hành tinh sống của chúng ta chịu tổn hại nặng nề, chúng ta đã làm ô nhiễm sông ngòi, biển cả và không khí, chúng ta chen chúc chung một chỗ, dùng sắt thép, nhựa và xi măng xây nên những kiến trúc cổ quái, gọi những chiếc hộp bê tông là nhà và tập hợp kỳ lạ đó là thành phố, và sinh sống trong đó. Chúng ra chen lấn nhau, ăn, uống, vui chơi, xả ra các loại rác khó mà phân hủy được.
Trái đất của chúng ta bốc khói, loang lổ vì đào xới, rừng cây run rẩy, trụi cành. Sông, biển gào thét, mang trong mình bao thứ ô nhiễm, hạn hán lũ lụt,… tất cả các triệu chứng phản sinh thái đều có liên quan chặt chẽ với phát triển khoa học kỹ thuật không kiềm chế. Hiện tại chúng ta có gì trong sạch? Các thứ cơ bản để duy trì sự sống của nhân loại là không khí, ánh mặt trời, thực phẩm và nước uống… đều có vấn đề nên chắc chắn là những ngày tháng tốt đẹp của nhân loại sẽ không còn nhiều nữa nếu chúng ta không điều chỉnh lối sống.
Loài người hiện nay ít chết già mà chủ yếu là chết vì bệnh. Chết già là sự viên mãn, là hạnh phúc của con người, còn chết bệnh là cái chết tức tưởi. Cái gọi là tuổi thọ bình quân cao ở các nước “văn minh” phương Tây chẳng có bao nhiêu ý nghĩa. Dùng hóa chất và công cụ y học để kéo dài sự sống, mà đoạn sống được kéo dài đó nhiều khi chỉ là cái chết lâm sàng.
Thời còn thanh niên, khi chiến tranh Việt Nam còn là vấn đề làm rúng động lương tâm nhân loại, ba có nghe hai câu chuyện có liên quan đến trí thông minh và chọn lựa của nhà khoa học trong cuộc chiến đẫm máu này.
Câu chuyện thứ nhất là viên đạn M16. Đó là một viên đạn bay với vận tốc của âm thanh, vừa bay vừa xoắn quanh mình, đâm thủng, xé thịt và làm chảy máu, để kẻ bị bắn trúng phải chết trong vòng 15 phút. Một viên đạn dã man, nhưng kinh khủng là có một người nào đó đã phát minh ra nó, một chính phủ đã sử dụng, một kỹ nghệ gia đã nhờ nó để làm giàu. Nhưng cũng không kém phần kinh khủng khi những người thợ trong hãng chế tạo ra nó, với sự đồng tình và bảo đảm của công đoàn, của các đảng xã hội và một cách cẩn thận, tỉ mỉ, các kỹ sư, các chuyên gia về chất lượng loại bỏ nếu có viên nào hư hay làm chậm dây chuyền sản xuất, loại viên nào không đạt tiêu chuẩn đâm thủng – xé thịt – làm chảy máu; cũng chắng kém phần kinh rợn khi người lính của một đội quân dùng nó để bắn, nhắm thật kỹ để không phung phí, rồi tất cả đều biện hộ là tôi – chỉ làm theo lệnh!
Câu chuyện thứ hai nằm trong phòng nghiên cứu phát triển bom Napal. Các chuyên gia quan sát thấy những nạn nhân da vàng bị cháy, nóng, họ phủi tay và lửa tắt. Thế là các nhà khoa học đăm chiêu. Bóp trán. Dùng trí thông minh của mình để suy nghĩ. Và cuối cùng tìm được chất keo bám dính thích hợp để thêm vào, phủi không rớt, đập không tắt, cứ bám vào da thịt và tiếp tục cháy. Họ vui cười. Reo hò. Mở rượu sâm banh để ăn mừng.
Bên những thứ vũ khí hủy diệt người ta còn sáng chế ra thứ “vũ khí hạt nhân lành mạnh”! Bom Neutron đã được gọi một cách mỹ miều như thế vì được thiết kế để tiêu diệt con người nhưng chỉ gây tổn hại tối thiểu tới các công trình của đối phương. Khi bom nổ, các sinh vật sống trong phạm vi sẽ bị tiêu diệt nhưng tài sản sẽ vẫn được giữ nguyên. Nói nôm na là bom chỉ giết người chứ những thứ khác như nhà cửa, ô tô, tivi tủ lạnh thì không hề hấn. Điều này chứng minh là họ quý những vật dụng ấy hơn mạng sống!
Trong chiến tranh thế giới thứ hai tại trại tập trung Auschwitz có một “nhà khoa học” khét tiếng. Ông bác sĩ này tên là Josef Mengele, được biết với biệt danh “Thiên sứ của Quỷ thần”. Mengele đặc biệt quan tâm tới việc nghiên cứu trên các cặp sinh đôi cùng trứng, dùng các trẻ em Do Thái làm đối tượng cho những thí nghiệm tàn độc như gây bệnh ở một đứa trẻ (trong một cặp) và giết đứa còn lại khi đứa kia đã chết để tiến hành khám nghiệm so sánh. Mengele cố tình gây bệnh cam tẩu mã(*) cho những cặp song sinh, người lùn (cũng là một đối tượng được quan tâm), và các tù nhân khác để nghiên cứu các tác động!
(*) Tiếng Anh là noma, là chứng viêm miệng hoại tử, bắt đầu ở lợi hoặc ở má, lan rất nhanh ra má, môi, hoại tử phần mềm làm thủng má, môi, mũi, sau đó làm hoại tử xương, răng lung lay rụng dần, có mùi rất hôi thối.
Josef Mengele còn là một kẻ hoang tưởng về sự ưu việt của chủng tộc Đức. Một tên sát nhân lạnh lùng, nhân danh khoa học và đã từng bơm thuốc mê vào tim trẻ em, gây bệnh thương hàn cho tù nhân, tiêm axit cho ăn mòn ống dẫn trứng của phụ nữ, mổ lấy tim ở người đang sống, chặt nhỏ trẻ sơ sinh và đưa hàng nghìn người Do Thái vào phòng hơi ngạt.
Sau khi Đức thua trận, tên khốn kiếp này trốn thoát qua Brasile với ý đồ làm sạch chủng loại Đức bằng cách nhân bản Hitler.
Dựa theo tính cách của Mengele, nhà văn Ivra Levin năm 1976 viết một quyển tiểu thuyết tên là “Những đứa trẻ đến từ Brasil” (The Boys from Brazil) và sau đó đạo diễn Franklin J. Schaffner đã chuyển thành phim:
Thông qua việc nhân bản các mẫu máu và mô sinh học của Hitler đã lấy trước khi chết, Mengele cho ra đời 94 đứa bé có đặc điểm di truyền giống hệt Hitler rồi giao cho các gia đình, được chọn lọc cẩn thận, nuôi dạy. Các gia đình này nằm rải rác khắp nơi trên thế giới, tất cả đều phải có cùng điều kiện gia đình và xã hội giống như tuổi thơ của Hitler: cha lớn hơn mẹ nhiều tuổi, nóng nảy, bạo lực trong khi mẹ là người hiền và yêu con. Cũng giống như Hitler, đến ngày tháng đứa bé 14 tuổi, giống như với ngày tháng đã xảy ra trong đời thực, cha của các đứa bé này chết thảm khốc vì bạo lực. Giấc mơ của Mengele là tạo nên cùng điều kiện của Hitler vào những năm thơ ấu để sau này các bé trở thành một Hitler để lãnh đạo nước Đức thống trị thế giới.
Để thực hiện mục đích Mengele tuyển một đội ngũ cựu Đức Quốc Xã (Nazi) để thực hiện 94 vụ sát nhân mà lão ta gọi là “nhiệm vụ cao cả”. Những vụ thảm sát xảy ra đúng theo dự kiến và kế hoạch dường như tiến triển tốt cho tới khi Ezra Lieberman, một người săn Nazi kiên định đang lần theo dấu vết của Mengele và bắt đầu theo dõi và điều tra các vụ thảm sát liên quan. Ông Ezra Lieberman phải tự điều tra vì cảnh sát không tin các nghi vấn này.
Trong một cuộc hỏi cung trong nhà lao với một cựu Nazi, Ezra Lieberman khám phá là có một danh sách các gia đình đã nhận 94 đứa con nuôi và những cha nuôi đều bị chết vì bạo lực. Các trưởng đội hành quyết khi biết có Ezra Lieberman theo dõi đành phải tạm ngưng vì sợ ông lần ra đầu mối và bị bắt. Thế nhưng Mengele không thể chấp nhận là “giấc mơ” và sứ mạng của mình tan thành mây khói nên tự mình đi hành quyết Lieberman. Và hành tung bị lộ nên cuối cùng Mengele bị Ezra Lieberman dồn vào tử lộ: Khi Mengele bắn chết người cha, thì nhân bản của Hitler, dưới sự thúc giục của Lieberman, thằng bé đã xua chó cắn chết và xé xác Mengele!
Câu chuyện này cũng na ná như vấn đề “ưu sinh” mà trong thế kỷ 19 triết gia Bertrand Russel cũng đã từng cảnh báo nhân loại: Thí dụ một chính quyền nào đó muốn có một giống người mà họ cho là tốt thì họ sẽ lựa và gây giống bằng một tỉ số đàn ông và vài ba chục phần trăm đàn bà, còn lại bao nhiêu thì phải làm cho tuyệt chủng hết, không cho truyền giống được nữa. Điều này rất có thể xảy ra khi có một chính quyền muốn có ưu thế về võ bị. Vì giống người này sẽ chiến đấu rất hăng…
(Còn nữa)
Trích đoạn nằm trong cuốn sách “Trò chuyện với thiên thần”
Nhà văn Trương Văn Dân
Đăng tải dưới sự cho phép của tác giả
Cuốn “Trò chuyện với thiên thần” đã được NXB Tổng Hợp xuất bản năm 2020, có thể được tìm đọc tại các nhà sách và nhà sách trực tuyến ở Việt Nam
Tính đến nửa đêm thứ Hai (28/7) đã có 30 người thiệt mạng ở Bắc…
Cho đến khi ở tuổi trung niên và đã trải qua tất cả, người ta…
Dự thảo sửa đổi Luật Đất đai 2024 của Bộ Nông nghiệp và Môi trường…
CK Hutchison Holdings mới đây cho biết có kế hoạch mời các nhà đầu tư…
"Các thế lực từng muốn hủy diệt nước Nga trong quá khứ đang tái sinh…
Trong tuần từ 21-28/7/2025, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) bơm ròng 84,415 tỷ đồng trên…