Mong muốn trở thành bậc mẫu nghi thiên hạ, sinh ra vua, nhưng người phụ nữ tinh thông tướng số này lại không thể toại nguyện, chỉ sinh được một người con trai. Mặc dù vậy, con trai bà là một kỳ nhân hiếm có, đỗ trạng nguyên, làm quan đến tước quốc công, trở thành nhà chiến lược kỳ tài, nhà thơ có ảnh hưởng sâu sắc và còn được dân gian coi là nhà tiên tri số một trong sử Việt.
Vào thời nhà Lê ở làng An Tử Hạ, huyện Tiên Minh, xứ Hải Dương (nay thuộc xã Kiến Thiết, huyện Tiên Lãng, thành phố Hải Phòng) có người phụ nữ đặc biệt thông minh tên là Nhữ Thị Thục. Bà là con gái của quan thượng thư bộ Hộ, tiến sĩ Nhữ Văn Lan dưới thời Lê Thánh Tông.
Vì sinh trưởng trong một gia đình khoa bảng danh giá nên bà Thục học rất giỏi, tính tình quyết đoán, thông kinh sử. Hơn nữa bà còn thông tỏ cả Dịch lý, tướng số, mang chí lớn.
Biết tướng mạo của mình sẽ sinh quý tử, lại thấy khí số nhà Lê đã đến hồi suy tàn sắp mất, nên bà quyết chí phải lấy cho được người chồng có số làm vua hoặc có số sinh ra vua.
Chính vì thế, dù sinh trưởng trong gia đình danh giá, được nhiều trang tuấn kiệt để mắt, nhưng bà đều từ chối vì qua thuật xem tướng số bà biết rằng vận mệnh của họ không thể làm vua, cũng không thể sinh ra quý tử.
Mãi sau này, bà Thục gặp được một ông đồ nhà quê ít tiếng tăm tên là Nguyễn Văn Định ở huyện Vĩnh Lại (tức Vĩnh Bảo ngày nay). Bà quyết định đến với ông vì biết rằng tướng số của ông có thể sinh ra quý tử.
Rồi bà Thục thụ thai, sinh con trai, đặt tên là Nguyễn Văn Đạt, chính là tên khai sinh của Nguyễn Bỉnh Khiêm sau này. Vì rất kỳ vọng vào con nên ngay từ nhỏ bà đã chăm sóc dạy dỗ rất chu đáo. Từ khi mới sinh, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã được mẹ hát ru bằng những câu dân ca hoặc những vần thơ do bà sáng tác.
Dân gian truyền rằng, Nguyễn Bỉnh Khiêm đầy thôi nôi đã biết nói, lên 4 tuổi đã được mẹ dạy học thuộc lòng kinh sách, cùng nhiều bài thơ Nôm. Nguyễn Bỉnh Khiêm trong lời tựa cho Bạch Vân am thi tập của ông cũng đã khẳng định và tỏ lòng biết ơn công lao cũng như nhiệt tâm của mẹ trong việc dạy dỗ mình những năm đầu đời.
Vì kỳ vọng con sau này có thể làm vua, nên bà Nhữ Thị Thục không ít lần xích mích với chồng. Một lần khi bà đi chợ, ông Văn Định ở nhà buộc dây vào cành tre, kéo lên, kéo xuống cho con chơi và ngâm đùa rằng: “Nguyệt treo cung, nguyệt treo cung”.
Những tưởng Nguyễn Bỉnh Khiêm chưa biết gì, ai ngờ cậu lập tức nói: “Vịn tay tiên, nhè nhẹ rung”.
Đến khi bà Thục đi chợ về, ông Văn Định kể lại chuyện để khoe vợ, chẳng ngờ bà gay gắt nói: “Nuôi con mong làm vua làm chúa, cớ sao lại mong làm bầy tôi” (Nguyệt tượng trưng cho bầy tôi).
Lần khác khi vợ đi vắng, ông Văn Định lấy sách của vợ tìm một câu để dạy con, thấy câu: “Bống bống, bang bang, ngày sau con lớn, con tựa ngai vàng”.
Ông Văn Định hoảng sợ, lo con đọc thì bị cho là tội phản nghịch, bị chém đầu, bèn sửa chữ “tựa” thành chữ “vịn”.
Bà Thục sau này biết chuyện thì than: “Sinh con ra, mong con làm vua thiên hạ. Nay thầy nó dạy con làm tôi, chán quá!”
Rồi sau này bà Thục dùng thuật xem tướng số, thấy con mình tướng mạo rất tốt, hiềm nỗi da hơi dày, nên biết dù có là thiên tài cũng chẳng thể làm vua; cộng thêm mâu thuẫn trong việc dạy con khiến bà Thục chán nản bỏ đi.
Về cuộc đời sau này của bà thì có nhiều ý kiến trái chiều. Một số nhà nghiên cứu cho rằng ít lâu sau bà Nhữ Thị Thục gặp và lấy ông Phùng Chí Công, sinh thêm được một ông trạng nữa cũng nổi danh đất Việt là trạng Bùng Phùng Khắc Khoan. Gia phả họ Phùng ở Phùng Xá, Thạch Thất, Sơn Tây là “Ký lục tiên tổ sự tích” do cháu 3 đời của trạng Bùng ghi lại cũng có chép:
Khi thân phụ Phùng Khắc Khoan ở Từ Sơn, có gặp một thiếu phụ từ Hải Dương đến, lông mày lá liễu, sắc mặt hơi buồn. Bà đi cùng đường với ông, được chừng một dặm, ông thấy bà nhàn rỗi như đi dạo, bèn trò chuyện, hỏi han. Thấy ông có phúc tướng, bà mới bộc bạch nỗi lòng. Ông rơi lệ cảm động. Hai người kết nghĩa vợ chồng. Qua năm sau, sinh được con trai có tướng lạ, mới 5-6 tuổi mà đã có khí vũ của bậc trượng phu. Bà mừng rỡ bảo ông nên dạy cho nó học, nếu trời xanh không phụ, may gặp thời phò được thiên hạ nghiêng đổ thì chí thiếp mãn nguyện.
Nhiều người nhìn nhận rằng người phụ nữ Hải Dương ấy mang họ Nhữ, là mẹ của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Tuy nhiên do đây là gia phả do cháu 3 đời ghi lại, mà thời điểm ghi lại thì dân gian cũng đã có nhiều thuyết về trạng Trình và trạng Bùng, nên cũng khó mà có thể lấy đó làm điều xác thực.
Trong bài phả ký tựa đề “Bạch Vân am cư sĩ Nguyễn công Văn Đạt phả ký” (Phả ký về Bạch Vân am cư sĩ Nguyễn Văn Đạt), Vũ Khâm Lân lại khẳng định “Bà (tức Nhữ Thị Thục, mẹ của Nguyễn Bỉnh Khiêm) vẫn không nguôi giận, bỏ về ở bên cha mẹ đẻ, cách ít lâu sau thì mất”.
Quả thực việc bà Nhữ Thị Thục có phải là thân mẫu của cả trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm và trạng Bùng Phùng Khắc Khoan không có rất nhiều tranh cãi. Chủ yếu nhất là vì hai ông trạng Việt này cách nhau những 37 tuổi. Nếu bà Thục khoảng 30 tuổi mới lấy chồng, rồi hoài thai, sinh nở và nuôi lớn trạnh Trình, rồi bỏ đi lấy ông Phùng Chí Công, thì thời điểm sinh trạng Bùng ước tính phải vào năm bà trên 70 tuổi. Điều này quả là khó mà lý giải.
Hiện tại, phần mộ của bà Nhữ Thị Thục được đặt bên cạnh phần mộ song thân là vợ chồng quan thượng thư Nhữ Văn Lan vẫn được bảo quản nguyên vẹn tại quê nhà trong gần 500 năm qua. Tại sao khi bà mất lại không được chôn cất bên nhà chồng tại xã Lý Học, huyện Vĩnh Bảo mà lại an táng bên nhà cha mẹ đẻ ở thôn An Tử Hạ, xã Kiến Thiết, huyện Tiên Lãng? Âu đó cũng có thể là một bằng cớ cho việc bà “bỏ về ở bên cha mẹ đẻ, cách ít lâu sau thì mất” như trong cuốn “Bạch Vân am cư sĩ Nguyễn công Văn Đạt phả ký” có chép lại.
Sức người không thay đổi được thiên mệnh, tuy mẹ tinh thông tướng số, trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng không thể làm vua. Nhưng dù ông không phải là vua, thì các bậc vua chúa thời đó đều phải tới hỏi ý kiến ông. Điều đó giả như bà Nhữ Thị Thục biết được, thì cũng kể là một sự an ủi lớn.
Lúc nhà Lê bắt đầu trung hưng, vua Mạc ngự giá đến nhà ông hỏi các kế công thủ, trạng Trình đã đáp rằng: “Ngày sau nước có việc, đất Cao Bằng tuy nhỏ, cũng giữ được phúc đến vài đời”. 7 năm sau, nhà Mạc mất (1592), lui về giữ đất Cao Bằng, quả nhiên truyền được tới tận năm 1677.
Khi Nguyễn Hoàng lo lắng bị chúa Trịnh sát hại, bèn sai sứ hỏi Nguyễn Bỉnh Khiêm, trạng Trình không trả lời thẳng, chỉ nói rằng: “Hoành sơn nhất đái, vạn đại dung thân”, có nghĩa là: “Hoành sơn một dãy, dung thân ngàn đời”.
Nguyễn Hoàng đã qua Hoành Sơn đến Thuận Hóa và làm nên nghiệp lớn của chúa Nguyễn ở Đàng Trong và nhà Nguyễn sau này.
Khi vua Lê Trung Tông mất, Trịnh Kiểm muốn nhân cơ hội này chiếm ngôi vua của nhà Lê, bèn hỏi ý kiến Phùng Khắc Khoan, nhưng ông cũng không biết nên làm thế nào bèn phái người bí mật hỏi Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Nguyễn Bỉnh Khiêm nói rằng: “Năm nay thóc giống không tốt, chúng bay nên tìm thóc cũ mà gieo mạ” và “Giữ chùa, thờ Phật thì được ăn oản”.
Phùng Khắc Khoan hiểu ý Nguyễn Bỉnh Khiêm, bèn nói với chúa Trịnh rằng phải thờ vua Lê thì mới được lâu dài.
Sau này con cháu nhà Trịnh nhiều người muốn cướp ngôi nhà Lê, tìm đến Nguyễn Bỉnh Khiêm thì ông đều nói rằng “Lê tồn, Trịnh tại; Lê bại, Trịnh vong” khiến chúa Trịnh không dám cướp ngôi vua Lê. Đến khi vua Lê Chiêu Thống mất ngôi thì nhà Trịnh cũng bị diệt.
Nguyễn Bỉnh Khiêm dù không là vua nhưng tiếng nói của ông lại quyết định cuộc cờ của các thế lực vua chúa thời bấy giờ. Ông nổi tiếng với những lời tiên tri mà dân gian gọi là “Sấm trạng Trình” hay “Sấm ký Nguyễn Bỉnh Khiêm”. Đây là những lời được cho là có tính tiên tri của Nguyễn Bỉnh Khiêm về các biến cố chính của dân tộc Việt Nam trong khoảng 500 năm (từ năm 1509 đến khoảng năm 2019).
Theo suy diễn, nhiều điểm được nêu trong sấm ký này đã trùng khớp với các sự kiện lịch sử Việt Nam mà nổi bật nhất là tiên đoán về quốc hiệu Việt Nam, vì vào thời Nguyễn Bỉnh Khiêm sống thì Việt Nam chưa có quốc hiệu này mà vẫn còn dùng quốc hiệu Đại Việt. Chính vì vậy mà dân gian coi ông là nhà tiên tri số một trong sử Việt.
“Sấm trạng Trình” gắn với những giai thoại và sự thật lịch sử. Nhiều nội dung trong sấm ký hiện đã được giải mã và cho là ứng nghiệm, trong đó phải kể tới:
Sau này những nhà nghiên cứu về trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm đều đánh giá cao vai trò của bà Nhữ Thị Thục trong việc giáo dục Nguyễn Bỉnh Khiêm. Cố giáo sư sử học Trần Quốc Vượng có nhận xét rằng:
Bà Nhữ Thị Thục – thân mẫu danh nhân văn hóa Nguyễn Bỉnh Khiêm là một trong ba người phụ nữ nổi tiếng, tài trí hơn người của Việt Nam ở thế kỷ XVI. Đó là Trạng nguyên Linh phi Nguyễn Thị Duệ, Quận công Nhữ Thị Thuận và phu nhân Nhữ Thị Thục.
Trần Hưng
Xem thêm:
Mời xem video:
Tích lũy từ đầu năm 2024 đến nay, TP.HCM ghi nhận 2.438 ca bệnh sởi,…
Một ngày nọ, một tài xế taxi ở New York nhận được cuộc gọi xe…
The Korea Times ngày 3/12 dẫn tin từ nhà chức trách cho biết một nhóm…
Từ 1/1/2025, xe cơ giới sử dụng năng lượng sạch, năng lượng xanh, thân thiện…
Chỉ riêng tại Cơ sở 551 Nguyễn Văn Cừ (Hà Nội), Tổng công ty Đường…
Trần Nhất Tân là một Bộ trưởng mới của Bộ An ninh Quốc gia, với…