Bình phong sơn mài. (Tranh minh họa trên Văn Hóa Nguyệt San số 4 tháng 8-1952)
Nghề sơn xuất hiện tại nước ta, không biết từ bao giờ. Người ta chỉ biết rằng trong khoảng thời nhà Đinh, đã có một tướng quân dạy quân lính chẻ tre đan làm thuyền thúng, rồi lấy chất sơn mà trát cho kín.
Trong đời Hồng Bàng, có tục văn thân, theo đó dân chài lưới lấy các màu sắc bôi vào mình, vẽ ra những hình kỳ quái, khiến khi lặn xuống nước, những loài thủy tộc trông thấy phải sợ, không dám hại người. Chẳng biết bây giờ dân Lạc có dùng đến chất sơn không.
Thứ sơn mà tướng quân nhà Đinh đã dùng, như kể trên đây, là thứ sơn sống, tức là nhựa một thứ cây, gọi là cây sơn.
Nhựa ấy chất quánh như sữa đặc, trên mặt bao giờ cũng đen, rắn lại, vì gặp dưỡng khí ở trong không khí.
Sơn sống ấy có thể cứ nguyên thế quét phủ lên mặt gỗ, cũng thành một lớp mỏng, đủ bảo đảm cho chất gỗ ở trong khỏi ngại nắng mưa. Nhưng như thế thời vẽ chưa đủ đẹp, không được óng ả.
Nên người ta phải dùng đến sơn chín mà cách làm, cố nhiên phức tạp hơn.
Hiện nay, muốn so sánh một mặt gỗ phủ sơn sống, với một mặt gỗ phủ sơn chín thì thật khó, vì không ai dùng sơn sống mà phủ dụng cụ nữa. Những đồ gỗ bây giờ, không phủ được bằng sơn chín, thì người ta phủ bằng sơn tây, sơn quang dầu hay để mộc, chứ không chịu phủ bằng sơn sống nữa. Cứ biết một mặt sơn chín đối với một mặt sơn sống, tỉ lệ như mười với một hai vậy.
Sơn sống đem quấy lên (công việc này gọi là đánh sơn) thời chất sơn thẫm dần lại và trong dần dần, quánh dần như chất mật. Màu cũng trở nên đỏ nâu nâu như mật; và nếu quét một nước mỏng lên vật gì trắng, thời ta thấy thành màu nâu. Vì vậy, người ta gọi đó là sơn cánh gián, lấy ý rằng màu nó giống như màu nâu ở cánh con gián vậy.
Pha một ít nhựa thông và dầu trẩu vào, chất sơn thành dẻo mịn hơn. Lọc qua một lần lụa, rồi trộn với bột son thì thành sơn son. Những câu đối, hoành phi, án thư, khám thờ, cùng những mâm bồng, đài, đèn, nến, với các vật dụng như hộp, khay, giã mâm, đĩa, v.v. sơn đỏ, mặt bóng, các thứ ấy đều phủ bằng sơn son cả.
Còn sơn màu đen thì gọi là sơn then. Đó cũng là sơn sống, nhưng được quấy bằng một thanh sắt trong một cái chậu sành ráp; đầu thanh sắt càng quấy càng mòn dần; chất sắt hòa hợp với chất sơn thế là sơn thành ra đen. Rồi cũng lọc bằng lụa, cũng trộn nhựa thông và dầu trẩu vào để dùng sơn đen các đồ vật.
Ngoài hai thứ sơn son và sơn then, thợ sơn còn dùng một thứ sơn gọi là cầm, để làm nền những chỗ cần thếp vàng, thếp bạc. Sơn cầm cũng chỉ là một thứ sơn cánh gián, pha nhiều dầu vào cho nó lâu khô, để đủ tư cách dính chặt những lá vàng lá bạc đặt lên trên đó.
Thế là trong nghề sơn ta, từ trước tới nay, vẫn có sơn son, sơn then, thếp vàng, thếp bạc. Thếp bạc rẻ hơn thếp vàng; nhưng sắc trắng của bạc sỗ quá, nên tuy là thếp bạc, người ta thường phủ lên trên một nước sơn, gọi là sơn phủ, cho nó thành ra giống như thếp vàng.
Thành thử bất cứ đồ sơn nào của ta cũng không ra ngoài ba thứ sơn son, sơn then, thếp vàng. Thỉnh thoảng ta mới thấy một vài thứ vừa thếp vàng lạt, vừa thếp vàng đỏ ói (chỗ thì để mặt vàng trơn, chỗ thì lại phủ lên một nước sơn cho nó đỏ lên). Tuy nhiên, giá trị đồ sơn chỉ dựa vào công phu chạm trổ thô sơ hay tinh tế.
Từ khoảng 1931, tại trường Mỹ thuật Đông Dương, khóa học sơn bắt đầu khai giảng; nghề sơn ta mới tiến được một bước dài. Ngày nay, trong các cuộc triển lãm, trong các cửa hàng mỹ phẩm, ta thấy những bức bình phong, những chiếc hộp, chiếc khay, những bìa quyển ảnh có nhiều hình đầy nét thếp vàng lăn tăn, và mặt sơn bóng bẩy. Đó đều là kết quả của cuộc thí nghiệm mà học sinh trường Mỹ thuật bấy giờ đã dày công khảo sát.
Lối sơn mới này, các báo chí ngày nay vẫn gọi là sơn mài, vì trong việc làm sơn này, việc mài là quan trọng nhất như ta sẽ thấy sau đây.
Như trên đã nói, bắt đầu từ 1931 tại trường Mỹ thuật, khóa sơn ta bắt đầu khai giảng. Kỳ thật thì cũng chẳng có gì đáng gọi là giảng; vì cả giáo sư lẫn học sinh chỉ cùng bắt đầu nghiên cứu.
Nguyên hồi ấy, giáo sư Inguimberty dạy môn Trang trí, rất chú ý đến mấy hộp sơn của Nhật bày tại viện Bảo tàng đường Bờ Sông. Những chiếc hộp ấy, mà bấy giờ hiện vẫn bày trong một tủ kính trên gác viện Bảo tàng, đều có nền sơn mịn màng, óng chuốt, có những hạt cát vàng lấm tấm như ta gọi là kim sa, lại có những cây anh đào nở đầy hoa mà mỗi đóa hoa có đủ cả năm cánh bằng vàng; nếu lấy kính hiển vi mà soi, thì hoa nào cánh nấy, tinh tế như những nét vẽ trong tem dán thơ.
Giáo sư Inguimberty – bấy giờ học sinh đều gọi tắt là ông Y – đưa sinh viên đi xem, xong về trường nhủ rằng: “Chất sơn của ta không kém gì chất sơn của Nhật; thế mà, với chất sơn ấy, người Nhật đã sản được những cái hộp đẹp như thế, thì ta há nên thờ ơ với nghề sơn”.
Rồi ông Y khuyên sinh viên lưu tâm đến vấn đề.
Bấy giờ, cả ông Y giáo sư, cho chí học viên, không ai thạo nghề sơn cả. Sau trong số học sinh, có 4 người (Nguyễn Hoa Thế, Vũ Đăng Bốn, Phạm Hữu Khánh và Trần Quang Trân) luôn trong một tuần lễ, ngày nào cũng xin phép vào viện Bảo tàng, chỉ để ngắm xem mấy chiếc hộp sơn Nhật Bản hòng nhìn lâu có nảy ra tia sáng nào chăng.
Rồi họ xin nhà trường cấp cho nguyên liệu và dụng cụ.
Vì cần có một người thợ dạy chuyên môn, nhà trường bèn ký một khế ước với ông Phó Thành, một tay thợ sơn đủ kinh nghiệm và năng lực, như ta sẽ thấy sau đây.
Công việc trù liệu để tổ chức ban sơn, ở cả một tay ông Thành đảm nhiệm.
Trong một tuần lễ, ban sơn đã có đủ thứ để sinh viên nhúng tay vào việc.
Bắt đầu bằng việc cưa một tấm gỗ vàng tâm, cho nó vuông vắn. Có chỗ mọt, chỗ lõm thì lấy sơn sống trộn với mạt cưa, trát lại, đợi khô, dần, rồi mài bằng đá bọt ráp, cho đều với mặt gỗ.
Đại khái thì công việc dự bị cũng như cũ, duy có điều sinh viên ham hiểu biết, thì làm có phần cẩn thận tinh tế hơn.
Mục đích việc dự bị là làm sao cho có một mặt thật bằng phẳng, lại đủ gợn để giữ chặt lấy những lượt sơn sẽ quét lên trên. Vậy người ta trộn sơn sống với bột đất sét mà trát lên, để cho rắn lại, rồi dùng đá mài mà mài cho phẳng. Không cần nhẵn lắm, vì có chút gợn mới dễ bắt sơn.
Đến đây, đã có thể quét ngay sơn chín vào rồi; nhưng vì muốn cho được bền, người ta hẵng quét sơn sống đã. Nước lót này rắn rồi thì mài qua cho đỡ gợn, thế là bắt đầu quét sơn chín lên.
Sơn chín tức là sơn son hoặc sơn then. Trước kia, những câu đối hoành phi, thường chỉ quét một nước sơn son hoặc sơn then là đủ. Nay sinh viên mỹ thuật nhận thấy càng quét nhiều lần càng đẹp, vì mặt sơn càng trong, càng có vẻ sâu hơn.
Vì vậy, mà họ đã khám phá ra lối sơn mài. Nguyên do trước kia, dùng sơn có pha dầu trẩu thì chỉ quét được một nước thôi, vì nếu quét thêm một vài lớp nữa lên trên, thì mặt sơn thành ra gồ ghề, do những nét bút sơn để lại. Bây giờ không pha dầu vào nữa, thì lớp sơn ấy có thể mài cho thật nhẵn được. Trên mặt nhẵn ấy lại quét lớp nữa, và lại mài, lại quét. Sơn son mà quét độ dăm lớp như thế, thì rồi sau nước sơn trở nên trong lờ lờ, sẽ có vẻ sâu xa như hổ phách, đẹp lắm.
Trước kia, những đồ sơn đều chỉ toàn sơn son hoặc toàn sơn then, chứ không ai cầu kỳ mà quét chỗ thì sơn chỗ thì then. Giờ thì học sinh cầu kỳ hơn: họ quét chỗ thì sơn son, chỗ thì sơn then, thành ra mảng thì đen, mảng thì đỏ. Như sơn làm nên cho một bức phong cảnh thì họ quét nền trời bằng sơn son, mảng núi bằng sơn then, rồi trong lòng mảng núi ấy lại có nhà bằng sơn nâu, cây bằng sơn then rắc vàng, cây khác bằng sơn then rắc bạc, v.v.
Mỗi mảng như thế phải tô bốn năm lần cho đủ dày, để có thể mài cho đều nhau. Cái lối sơn mài ngày nay thật chẳng khác gì lối khảm xà cừ. Mỗi mảng sơn tức là một miếng ốc gắn sâu vào giữa những mảng khác; sau khi miếng nào miếng nấy đặt đâu vào đó, người ta mài một lượt, mặt sơn nhẵn hẳn, mà màu nọ ở cạnh màu kia, sờ tay không thấy gợn.
Trên mặt sơn nhẵn thín và bóng nhoáng, có đủ hình thể từng mảng với màu sắc khác nhau ấy, học sinh sẽ tô những nét tỉ mỉ, rồi thếp vàng lên. Bấy giờ, trên mảng nhà là thì có những nét lá gồi bằng vàng bóng; trên mảng cây tre thì có những lá tre; trên mảng bãi xanh thì có những nét cỏ lăn tăn; trên mảng thân trâu thì có những nét lông trâu; trên mảng mái ngói thì có những nét ngói…
Lối sơn này trình bày một vẻ rực rỡ tinh tế, mà chỉ có đồ sứ Tát ma của Nhật mới có thể so sánh được. Thật vậy, ai đã xem qua đồ sứ loại Satuma của Nhật, đều thấy trên mặt men rạn lăn tăn, người ta đã vẽ những hình hoa điểu, phong cảnh đủ màu, và trên đó, lại còn tía thêm những nét vàng lăn tăn đỏ ối.
Từ ngày ấy trở đi, trường Mỹ thuật Đông Dương cứ cho học sinh áp dụng lối sơn mài này; và kết quả, như người ta đã được nhận thấy ngày nay, rất là tốt đẹp.
Trước kia, nghề sơn ta, đối với nghề sơn Nhật, chỉ có thể nhận con số tỉ lệ 1 phần 10, thì nay, dẫu không lên hẳn đến số 10, cũng không chịu ở dưới số 8. Ấy là đối với những tác phẩm Nhật bày tại viện Bảo tàng: chứ nếu nói tới những cái khay, cái hộp hạng thông thường, thì lối sơn mài của ta có thể gọi là hơn hẳn.
Muốn cho rõ rệt, để không còn ai có thể ngờ vực, ta cần xét xem nghề sơn ta đã hơn trước ở những điểm nào.
Ta có thể bấm đốt ngón tay mà đếm như trên đã nói, ta vốn chỉ có hai lối sơn son, sơn then, và một cách thếp vàng bóng nhoáng.
Ngày nay, nhìn trên một tấm tranh sơn của bất cứ một họa sĩ nào có tốt nghiệp hoặc không tốt nghiệp tại trường Mỹ thuật, người ta cũng thấy những điểm mới sau đây:
a) Sơn then thì có thêm lấm tấm cát vàng hoặc bạc. Cũng có khi lấm tấm bột son;
b) Sơn then rắc bạc đặc thành ra một màu xám do óng ánh; rắc vàng đặc thì lại càng quý hơn;
c) Sơn son cũng rắc vàng, bạc, lấm tấm, hoặc rắc đặc thành một màu da vàng có ánh kim khí;
d) Sơn cánh gián trong, màu hổ phách, trong đó những hạt vàng lấm tấm như sao lóng lánh, người ta gọi là kim sa;
đ) Sơn cánh gián dày thì vẻ càng sâu, lờ lờ như chất đồi mồi;
e) Sơn son, trộn với ít hoặc nhiều sơn, thành những màu thắm hoặc tươi tùy trường hợp;
g) Sơn khảm vỏ trứng;
h) Sơn khảm xà cừ, có một vẻ rất đẹp; ta cứ xem một cái hộp, cái khay gỗ trắc, khảm, đã đẹp bao nhiêu, thế mà nay lại đặt những nét khảm trên nền sơn tô điểm thêm son, vàng nữa, vẻ lộng lẫy tăng lên bội phần;
i) Sơn cốt lụa và cốt giấy, để làm những chiếc đĩa chén rất mỏng và bền. Tính ra trong vòng từ sau vụ hè năm 1931, đến đầu năm 1932, đã có người bắt đầu làm một bức bình phong 6 cánh với phong cảnh những bụi tre ở bờ ao trong làng Kim Liên gần Hà Nội.
Từ đấy về sau, trong số những họa sĩ áp dụng theo lối sơn mài này, có Phạm Hậu và Nguyễn Gia Trí là nổi tiếng. Trần Văn Cẩn có tài trong nghề sơn, nhưng kín đáo, nên ít người biết đến. Mới đây, Văn Thọ cũng trình bày những tác phẩm sơn mài khá đẹp. Ngoài ra, tại Hà Nội, hiện nay có nhiều họa sĩ cũng làm những tranh sơn, và trong số thợ sơn cũ, cũng lắm người bắt tay làm sơn mài, cách thức cũng theo như trường Mỹ thuật cũ, kết quả có nhiều hứa hẹn.
Duy trong nghề sơn này, cần phải có tài hội họa để dàn xếp, trình bày những bức vẽ có giá trị đã. Cái nghề chuyên môn chỉ giúp thêm vào cho giá trị bức tranh. Cho nên một người thợ sơn chỉ có nghề khéo cũng không bằng một họa sĩ có tài vẽ ra những kiểu đẹp. Những người thợ khéo chỉ có thể giúp cho họa sĩ trong công việc sơn từng mảng, vẽ từng chỗ một cho nét đều đặn. Chất sơn vốn quánh, bết vào ngọn bút lông, phải là một người thợ tỉ mỉ, chịu khó ngồi tô lại từng nét, một cách rất chậm chạp, mới không sốt ruột.
Nếu được chính tay họa sĩ vẽ lấy những nét ấy, thì kết quả lại có giá trị bội phần.
Nhìn những tác phẩm sơn mài bày trong những cuộc triển lãm, cùng trong mấy cửa hàng mỹ phẩm, người lưu tâm đến nền công nghệ và mỹ thuật nước nhà, có thể mừng thầm rằng ngành sơn ta tiến được một bước khá dài.
N.G.Y.M.
Đăng trên Văn Hóa Nguyệt San số 4 tháng 8-1952
Theo bản scan đăng trên Nhà Kho Quán Ven Đường do Huỳnh Chiếu Đẳng sưu tập và chia sẻ (ndclnh-mytho-usa.org)
Xem thêm:
Một bé gái 3 tuổi tại một trường mầm non ở thành phố Bàn Cẩm,…
Công ty cho biết những nhân viên bị ảnh hưởng được khuyến khích nộp đơn…
Thứ Năm ngày 23/10, thông báo chính thức của EU cho biết, khối này đã…
Nghiên cứu mới cho thấy lệnh cấm điện thoại di động ở trường học tại…
Sau khi Mỹ áp lệnh trừng phạt đối với Prince Group, các ngân hàng Hàn…
Fox News Digital đưa tin về dữ liệu do Giáo sư khoa học chính trị…