Phụ nữ trong nền quốc học xưa
- Sở Học chính B.V.
- •
Nền giáo dục Khổng Mạnh cổ truyền đã thu hẹp vòng hoạt động của phụ nữ trong giới hạn gia đình. Tề gia nội trợ, đó là trách nhiệm nặng nề mà thời xưa, trong một cuộc sống âm thầm, lặng lẽ, với sự phấn đấu nhọc nhằn, không một tiếng than, phụ nữ ta đã quên mình, hy sinh cả một đời, để gánh vác cho tròn bổn phận của một vợ đảm, mẹ hiền. Giáo dục cốt đào tạo những đàn bà kiểu mẫu đó, suốt mấy trăm năm không vượt ngoài phạm vi bốn chữ Tứ Đức Tam Tòng. Bị rèn đúc một cách khắc khổ, bó buộc, vậy mà ngay từ thời xưa, bóng đội nón quai thao, bỏ tóc đuôi gà, người cũng đã xuất hiện trên đài văn chương nước Việt, đem tài năng thi thố cùng văn nhân bên nam giới.
Ngay trong tục ngữ ca dao, tất cũng đã có những nữ tác giả vô danh sớm biết đem tâm hồn chất phác, tình cảm nhẹ nhàng tế nhị, bày tỏ trong những lời ca chân thật mà đầy thi vị:
Em là con gái Phụng Thiên,
Bán rau mua bút, mua nghiên cho chồng.
Nữa mai chồng chiếm bảng rồng,
Bõ công tắm tưới vun trồng cho rau…
Nhưng ta hãy lần giở lịch sử văn học nước nhà, kiếm điểm lại những công trình mà phụ nữ thời xưa đã góp phần vào cuộc xây dựng nền quốc học.
Ở thời kỳ sơ khởi, vì tài liệu còn thiếu thốn, ta chưa thể biết phụ nữ có để lại một tác phẩm văn chương nào không, nhưng với những phụ nữ có tài lãnh đạo dân tộc, chống xâm lăng như Bà Trưng, Bà Triệu, chắc hẳn cũng phải có phụ nữ có tài ăn nói để cổ vũ lòng yêu nước, kích thích chí phấn đấu của quân sĩ và nhất là để thúc đẩy nữ lưu mạnh bạo ra gánh vác nhiệm vụ chung.
Ta lên núi
Ta lên núi
Đuổi đàn hươu
Đuổi đàn hươu.
Chị em năm ba, mặt cùng dàu dàu.
Ta lên núi
Ta lên núi
Đuổi đàn nai
Đuổi đàn nai.
Nỗi niềm tâm sự ngỏ cùng ai?
Đoái trông phương Đông: nước rộng mênh mông,
Đoái trông phương Tây: đá trắng gồ ghề.
Đoái trông phương Nam: mây che đầu ngàn.
Đoái trông phương Bắc: núi cao ngất.
Bài hát này, tương truyền là do các nữ tướng của Trưng Vương đặt ra, để khuyến khích những đội nữ binh đã theo đi chiến trận. Ta hãy chú ý tới lời ca giản dị, mà bao hàm những ý tưởng thiết tha, đau lòng vì vận nước, nhưng không chút nản chí phấn đấu. Tình trạng xã hội điều tàn, lao khổ dưới sự thống trị tàn ác của nhà Hán, đã ảnh hưởng đến bài hát lâm ly thống thiết này.
Nhưng đó chỉ là một bài thơ truyền khẩu; muốn thành hình, nền quốc văn phải đợi đến đời Trần, khi phong trào thơ Nôm bắt đầu bành trướng, và mãi tới đời Lê, ta mới thấy một nữ thi sĩ xuất hiện: Bà Ngô Chi Lan.
Bà sống dưới đời Lê Thánh Tôn, một triều đại nổi danh là thịnh trị. Lê Thánh Tôn là một ông vua thông minh, hiếu học, có tài văn chương, đã mở mang giáo dục và khuyến khích các nhà văn làm thơ Nôm. Quốc văn nhờ đó bắt đầu nảy nở. Thi sĩ, văn nhân đua nhau ngâm vịnh; và bà Ngô Chi Lan đã để lại cho chúng ta bốn bài thơ tứ tuyệt: Vịnh bốn mùa. Thơ của bà đáng làm tiêu biểu cho thứ văn chương thượng lưu của đám trí thức đương thời.
Sinh trưởng ở một gia đình quý phái, chồng làm quan đến chức Đông các đại học sĩ, bà lại còn được cử vào dạy các cung nữ. Hoàn cảnh một xã hội thái bình thịnh vượng, dân chúng an cư lạc nghiệp; hoàn cảnh một gia đình phong lưu, trâm anh thế phiệt, lại thêm giáo dục Khổng Mạnh rèn đức, tất cả đã ảnh hưởng đến thơ văn của bà. Nhân đó, mới có lời thơ nho nhã, lịch sự, giọng điệu nhẹ nhàng, đài các:
Khí trời ấm áp đượm hơi đương,
Thấp thoáng lầu cao vẻ ác vàng.
Rèm liễu líu lo oanh hót gió,
Đầu hoa phơi phới bướm châm hương.
(Cảnh xuân)
Bài thơ đã phản ánh một đời sống đầy đủ trong một khung cảnh rực rỡ, phú quý của một bà mệnh phụ. Nhưng cuộc đời đó cũng chỉ tạo nên những tư tưởng phù phiếm, những tình cảm không nồng nàn chân thật. Hình thức rất điêu luyện nhưng nói đúng, nó chưa thoát khỏi các sáo ngữ.
Lò sưởi bên mình ngọn lửa hồng,
Giãi buồn chén rượu lúc sầu đông.
Tuyết đưa khói lạnh xông lên cửa,
Gió phảng mùa băng giải mặt sông.
(Cảnh đông)
Tuy vậy, Ngô Chi Lan đã khác các thi sĩ đương thời là đã không dùng đến điển tích cầu kỳ. Đây lại là một bức tranh mùa hạ, rực rỡ và khéo léo hơn.
Gió đưa bông lựu đỏ tơi bời,
Tựa gốc cây đa đứng nhởn chơi.
Oanh nọ tiếc xuân còn vỗ cánh,
Ến kia tức cảnh cũng gào hơi…
Và đây nữa, một cảnh thu hiu quạnh, dưới một ngọn bút tài tình:
Gió vàng hiu hắt cảnh tiêu sơ,
Lẻ tẻ bên trời bóng nhạn thưa…
Giếng ngọc sen tàn, bông hết thẳm,
Rừng phong lá rụng tiếng như mưa…
Tuy nhiên, nhà Lê suy dần; quân lính phải luôn luôn đi đánh dẹp tại các miền chinh chiến xa xôi. Hoàn cảnh như vậy đã tạo nên khúc Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn và bản dịch của một nữ thi sĩ: Bà Đoàn Thị Điểm.
Cũng như nữ sĩ Ngô Chi Lan, bà Đoàn Thị Điểm sinh trưởng trong một gia đình quý phái dưới thế kỷ thứ XVIII. Bà đã sáng tác nhiều văn phẩm chữ Hán, nhưng bà đã nổi tiếng vì bản dịch Chinh phụ ngâm. Tuy “dịch là phản” mà ta sẽ thấy nhà nữ sĩ không mắc phải lỗi ấy. Ta thử đọc một đoạn Hán văn và đoạn dịch:
Tương cố bất tương kiến,
Thanh thanh mạch thượng tang.
Mạch thượng tang, mạch thượng tang,
Thiếp ý quân tâm thùy đoạn trường…
Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy,
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu.
Ngàn dâu xanh ngắt một màu,
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?
Ý ở bản Hán văn đã giữ nguyên vẹn; nhưng bà Đoàn Thị Điểm đã đem uốn nắn vào trong âm điệu nhẹ nhàng đặc biệt Việt Nam. Câu dịch lại thành công hơn câu nguyên văn. Ta hãy so sánh:
“Thiếp ý quân tâm thủy đoản trường”.
“Ý thiếp lòng chàng, cái nào dài ngắn”.
Nếu dịch như vậy thì thật là ngô nghê, trúc trắc không thấu triệt được hết ý, không thấy bản sắc dân tộc. Trái lại:
“Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?”
Lời văn nhẹ nhàng kín đáo, đượm một mối buồn âm thầm sâu xa, đúng là lời của một chinh phụ Việt Nam.
Bà Đoàn Thị Điểm tuy dịch mà đã hầu như sáng tác. Ngày nay, ngoài những bậc tinh thông Hán tự, ai còn biết đến Chinh phụ ngâm khúc của Đặng Trần Côn. Chính bản dịch của Hồng Hà nữ sĩ đã làm cho tên tuổi Đặng Trần Côn không mờ trong trí nhớ của dân gian.
Thời thế tạo anh hùng; xã hội loạn lạc của thế kỷ thứ XVIII đã tạo nên một vị anh hùng áo vải: vua Quang Trung; và cái chết đáng tiếc của bậc anh hùng đó là cội nguồn hai áng văn tuyệt tác của một vị công chúa nổi danh tài sắc: bà Lê Ngọc Hân.
Bà là con vua Lê Hiến Tôn, rất thông minh và giỏi văn thơ. Thơ của bà có lẽ chỉ là những bài ca tụng cảnh phong hoa tuyết nguyệt với những đặc tính phù phiếm thông thường của thứ văn chương thượng lưu, quý phái, nếu định mệnh không đưa bà lên ngôi hoàng hậu sủng ái của một đấng anh quân, rồi lại đày đọa trong cảnh đau lòng của một sương phụ mới ngoại 20 tuổi.
Ôi, gió lạnh buồng dao, rơi cầm nẩy sắt,
Xông pha cung nỏ, hoen phấn mờ gương…
Việc vui vầy nhớ mãi rành rành, dịp ca múa bỗng khuây chừng Thần ngự,
Buổi chầu chực tưởng còn phảng phất, chuông điểm hồi sao vắng chốn Cảnh Dương.
(Tế vua Quang Trung)
Bài văn tế này với lời lẽ chải chuốt, đã phản ánh một văn tài ít có; nhưng với những luật lệ chặt chẽ, quy mô đã định sẵn, nó chưa chứng tỏ được tài văn chương của bà Lê Ngọc Hân. Ta phải đọc bài Tự thán làm theo thể song thất lục bát của bà sau khi an táng vua Quang Trung. Tình thương nhớ chân thành, nỗi tủi thân đau đớn đã được diễn tả trong những lời thơ thiết tha, cảm động:
Lênh đênh chút phận bèo mây,
Duyên kia đã vậy thân này nương đâu?
Chữ tình nghĩa trời cao đất rộng,
Nỗi đoạn trường còn sống còn đau…
Tiếng khóc nghẹn ngào của người đàn bà đau khổ, thực ra còn đáng thương hơn cả những lời kêu than trong bản Chinh phụ ngâm. Bà Lê Ngọc Hân đã vì một cảnh ngộ đau đớn trở nên một nữ thi sĩ xuất sắc. Bài Tự thán của bà đã tiến bộ hơn Chinh phụ ngâm, nhất là về phương diện tâm lý: tình cảm diễn tả đều là những tình cảm có thực, sâu xa thâm trầm. Nhưng bà vẫn chưa thoát khỏi ảnh hưởng khuôn sáo của thời trước.
Sau bà Lê Ngọc Hân, trong thời Lê mạt, Nguyễn sơ, đã nảy nở một nữ sĩ kỳ tài của Việt Nam. Bà Hồ Xuân Hương, khác hẳn các nữ sĩ đời trước, bà sinh trưởng trong giai cấp bình dân, cuộc đời của bà cũng không được an nhàn phẳng lặng như đời các bà mệnh phụ Ngô Chi Lan hay Đoàn Thị Điểm. Mồ côi cha từ thuở nhỏ, tuy nhà nghèo, bà cũng được theo đòi bút nghiên. Bà nổi tiếng có tài làm thơ Nôm ngay từ thời trẻ. Qua những bài thơ còn truyền lại, ta được biết thân thế long đong của bà: lấy lẽ tổng Cóc, lấy lẽ ông Phủ Vĩnh Tường mà rồi cũng hai lần góa bụa… Phải đối chọi cùng hoàn cảnh khó khăn, trái ngược với tâm hồn, một tâm hồn tự do, lãng mạn, phóng túng không chịu ép mình theo những lề giáo khắc nghiệt, nữ sĩ Hồ Xuân Hương là bậc phụ nữ trí thức đầu tiên, dùng thơ văn chống lại những thành kiến bất công.
Bà cũng biết các phụ nữ thôn quê thường không được quý trọng bằng nam giới, như trong câu ca dao đã nói:
Sao hôm đứng ở ngang đầu,
Em còn ở lại làm giầu cho cha.
Giầu thì chia bẩy chia ba,
Phận em là gái được là bao nhiêu?
Vì vậy, bà đã dùng thơ văn chê giễu “miếng đỉnh chung” mà người ta đã khéo đem ra dụ dỗ nữ lưu:
Ai về nhắn nhủ đàn em bé,
Xấu số đừng tham miếng đỉnh chung.
Xã hội loạn lạc đương thời đã bày ra lắm cảnh đảo điên, làm trò múa rối; bà Hồ Xuân Hương đã không ngại châm biếm.
Đây một bọn thi sĩ bất tài, lại tự phụ:
Dắt díu đưa nhau đến cửa chiền,
Cũng đòi học nói, nói không nên.
Kia một bọn rởm thích đua đòi:
Một đàn thằng ngọng đứng xem chuông,
Nó bảo nhau rằng: ấy cái uông…
Với tư tưởng, Hồ Xuân Hương đã tỏ ra một nhà thi sĩ cấp tiến.
Với văn chương, bà lại càng xứng đáng là vị lãnh đạo thi sĩ cổ điển, trong công cuộc xây dựng nền quốc văn thuần túy. Bà đã dùng toàn tiếng Việt, hạ những chữ rất táo bạo, gieo những vần hiểm hóc oái oăm, khinh thường các lối thơ quy mô lệ luật, điển cố, đang ngự trị trong văn chương. Ta hãy nghe:
Một đèo một đèo lại một đèo,
Khen ai khéo tạc cảnh cheo leo…
Dùng toàn những tiếng linh động, những mầu sắc thanh âm đặc biệt của nước nhà, thơ Hồ Xuân Hương đã mở đường cho lối thơ văn bình dân đại chúng, tức là đã giữ được bản sắc của dân tộc.
Bước sang thế kỷ thứ XIX, quốc văn đã đến cực độ của thời kỳ thịnh vượng; cả phẩm lẫn lượng đều tiến bộ. Riêng về nữ sĩ, các tác giả nhiều hơn ở mấy thế kỷ trước.
Các vua đầu tiên của nhà Nguyễn, sau khi thống nhất giang sơn, đã khôi phục được trật tự trong xã hội. Nho học lại thêm uy lực mạnh mẽ. Phụ nữ tri thức trong thời này đã quay trở về xu hướng văn chương cổ truyền của tiền nhân.
Nổi tiếng nhất có bà Huyện Thanh Quan, một nữ sĩ mà tài nghệ, tâm hồn trái ngược hẳn với bà Hồ Xuân Hương. Cùng một cảnh thu mà dưới mắt Hồ Xuân Hương thì là một bức tranh linh động, nét đậm nét nhạt, màu non, màu thắm, khéo pha trộn với nhau:
Đường đi thiên thẹp, quán cheo leo…
Lớp lều, mái cỏ gianh sơ sác;
Sẻ kẽ, cầu tre đốt khẳng kheo.
Với bà Huyện Thanh Quan, cảnh vật lặng lẽ, mầu sắc êm đềm đã gợi những tình cảm buồn dịu của một người đa cảm.
Thánh thót tầu tiêu mấy giọt mưa,
Khen ai khéo vẽ cảnh tiêu sơ.
Xanh om cổ thụ tròn xoe tán,
Trắng xóa tràng giạng phẳng lăng tờ…
Bà sống trong một thời đại yên hàn, lại là một mệnh phụ được nhà vua vời vào dạy các cung tần. Hoàn cảnh này đã có ảnh hưởng đến tâm hồn bà, một tâm hồn đoan chính, trầm tĩnh trong bóng dáng một bà quan đài các và nghiêm chỉnh. Cho nên từ lời thơ đến tình cảm và tư tưởng, tất cả đều mang dấu vết khuôn mẫu của Khổng giáo, trang trọng, lễ nghi.
Bước tới đèo Ngang bóng xế tà,
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa…
Thật là thong thả, điềm đạm; tình cảm đã được giáo dục uốn nắn; tư tưởng đã được lý trí điều khiển trong vòng tôn ti, trật tự; tất cả đều trở nên thanh tao, kín đáo, trên ra trên, dưới ra dưới.
Dừng chân đường lại trời non nước,
Một mảnh tình riêng ta với ta.
Xét về toàn thể, tính cách thơ của bà Huyện Thanh Quan đã trở lại với tính cách cổ điển của bà Ngô Chi Lan. Nhưng từ thế kỷ thứ XV đến thế kỷ thứ XIX, phụ nữ đã tiến nhiều về tư tưởng. Nhà nữ sĩ thời đại này không chú trọng đến những cảnh tầm thường nhạt nhẽo: giăng, tuyết, gió, hoa; bà nhìn xa, nghĩ rộng, than tiếc cho cảnh huy hoàng của thời đại cũ, nơi cố đô sầm uất:
Tạo hóa gây chi cuộc hý trường,
Đến nay thấm thoắt mấy tinh sương.
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo,
Ngõ cũ lâu đài bóng tịch dương.
Bà không dửng dưng với thời thế, như người ta đã có ý muốn vậy trong câu:
Thánh đổ đã có chúa xây,
Việc gì gái hóa lo ngày lo đêm?
Bà mang mối hoài cổ u trầm của một người có lý tưởng trung thành.
Ngàn năm gương cũ soi kim cổ,
Cảnh đấy người đây luống đoạn trường…
…
Trạnh niềm cố quốc nghĩ mà đau…
Ngoài ra, lại còn có một nữ sĩ khác hẳn: em gái vua Minh Mệnh. Cuộc đời đầy đủ của một nàng công chúa không khiến bà luyến tiếc cảnh giàu sang phú quý. Học vấn đã vạch rõ dưới mắt bà sự thực của đời người: toàn cảnh phù vân biến ảo, thoắt có thoắt không. Đời chỉ là một giấc mộng giả dối, cho nên bà đã lãnh cõi trần, để tìm dưới bóng Phật Đài.
Thế sự nhìn xem rối cuộc cờ,
Càng nhìn càng ngắm lại càng dơ.
Chu tử ngán mùi nên vải ấm,
Đỉnh chung lợm giọng hóa chay ưa.
Quốc văn đã thêm được một bậc nữ lưu đem quan niệm nhân sinh của đạo Phật giải thích bằng những lời thơ giản dị.
Đến cuối thế kỷ thứ XIX, những biến cố xảy ra trong nước đã có ảnh hưởng rất lớn đến thơ văn: cảnh chiến tranh rùng rợn bất chợt xô đến giữa đám dân quê đang quen sống trong bầu không khí phẳng lặng của một xã hội theo văn hóa Khổng Mạnh; tiếng súng hầu như làm bật tung cả nền đất yên lành, xé tan bức vách mong manh của những ngôi nhà cổ kính; kinh thành Huế vang dậy những tiếng kêu khóc thảm thương. Nữ sĩ Nguyễn Nhược Thị Bích đã làm sống lại tất cả các biến thiên ấy.
Bà thuộc dòng dõi khoa bảng, con quan Bố chính Nguyễn Nhược Sơn, được vua Tự Đức tuyển vào cung dạy học trong nội đình. Bởi vậy, bà được mục kích cảnh kinh thành thất thủ năm 1884. Vua Hàm Nghi phải đi trốn. Bà soạn bài Hạnh Thục ca kể rõ mấy trang sử đó.
Hai chữ “Hạnh Thục” nguyên dựa vào điển tích vua Đường Huyền Tôn, vì loạn An Lộc Sơn, phải bỏ kinh đô chạy vào đất Thục. Dùng hai chữ “Hạnh Thục”, bà Nguyễn Nhược Thị Bích muốn ám chỉ việc vua Hàm Nghi phải bỏ kinh thành Huế ra đi trốn…
Có nhiều đoạn tả rất rõ rệt cuộc giao tranh thời bấy giờ:
Vua tôi hoảng hốt vội vàng,
Hộ phù thánh giá một đoàn kíp ra.
…
Ầm ầm tiếng súng khắp nơi,
Khói đùn mù đất, lửa lòe hỏa mây…
Rồi đây là cảnh đau lòng khi dân chạy tơi bời, dưới làn mưa đạn:
Trẻ già la khóc vang trời,
Xa trông mù mịt khói bay lửa hồng!…
Nhưng vì không có chính kiến, nên bà Nguyễn Nhược Thị Bích nhiều khi không suy xét, đã kết án những người cầm quyền bấy giờ một cách quá ư nghiêm khắc:
Chất dầu đốt quán tung bừng,
Là mưu Thất Thuyết chắc chừng truy binh…
Sang đầu thế kỷ thứ XX, còn một vài phụ nữ trí thức của lớp bà Huyện Thanh Quan cũng góp ít nhiều vào nền quốc văn cổ điển: Bà Bang Nhãn, bà Nhàn Khanh, bà Sương Nguyệt Anh, v.v..
Rồi văn minh Tây phương thay thế cho văn minh Khổng Mạnh. Nền giáo dục cổ truyền không còn được duy trì nữa. Trong lớp phụ nữ sau này được hấp thụ nền giáo dục mới, số nữ sĩ càng ngày càng nhiều, mà tài nghệ cũng càng ngày càng tiến, không kém phái nam nhi.
Kiểm điểm lại, ta phải nhận rằng, phụ nữ ta thời xưa đã góp một phần đáng kể trong công cuộc xây dựng một nền quốc văn thuần túy.
Sở Học chính B.V.
Đăng trên Văn Hóa Nguyệt San số 2 tháng 6-1952
Theo bản scan đăng trên Nhà Kho Quán Ven Đường do Huỳnh Chiếu Đẳng sưu tập và chia sẻ (ndclnh-mytho-usa.org)
Xem thêm:
Từ khóa văn hóa nguyệt san
