Hoàng Hạc lâu. (Ảnh: Chuyuss, Shutterstock)
Từ xưa tới nay có lẽ hầu hết các bạn yêu chuộng văn chương đều biết đến bài Hoàng Hạc lâu của ông Thôi Hiệu. Lại có rất nhiều thi nhân, văn sĩ đã từng dịch ra tiếng nước nhà, nhưng vẫn chưa thoát được hết ý của tác giả vì bài ấy đã hay về phương diện văn chương, sự tích lại ly kỳ huyền hoặc. Nhân vì ngẫu hứng sau khi xem lại bài đó, tôi đánh bạo đem diễn tả ra đây và thuật lại sự tích để hiến các bạn đọc một câu chuyện vui không kém phần hứng thú. Phần nhiều trong kho tài liệu nước ngoài, cũng như trong nước nhà, chung quanh những áng văn bất hủ thường hay có những điển tích, hành động, hoặc tâm sự riêng của tác giả, bởi thế ta cần phải tìm biết để hiểu rõ thêm giá trị văn chương và luân lý ở trong. Tôi tin rằng những áng văn hay sẽ là những liều thuốc bổ cho tinh thần, có thể làm hứng khởi các thi nhân, và làm cho ta tạm quên giây phút hiện tại để cùng với tác giả cảm thông cái đẹp thiên nhiên của tạo hóa.
Ngọn Hoàng Hạc sơn thuộc về tỉnh Hồ Bắc, huyện Vũ Xương bên Tàu. Đứng trên ngọn núi trông ra thấy bát ngát một màu, phong cảnh thật là tuyệt đẹp. Xa xa thành Hán Dương như ẩn như hiện trong lớp khói lam chiều. Con sông Trường Giang nhẹ nhàng uốn khúc quanh co. Trên bờ sông có hai hàng cây mọc thẳng tắp, chiếu xuống mặt nước phẳng lặng như một tấm gương. Ngày tháng năm qua, dòng sông Trường Giang vẫn lững lờ trôi… như lẫn vào với chân trời mây vẩn. Phía tây bắc có một cái ghềnh đá nhô hẳn lên trên mặt nước. Dưới chân núi, bãi cỏ thơm Anh Vũ xanh biếc mịn màng, mênh mông như một tấm thảm tân kỳ. Thật là một bức họa thiên nhiên mà thi sĩ Thôi Hiệu đã ghi được bằng những lời thơ tuyệt diệu.
Phong cảnh núi Hoàng Hạc rất đẹp cho nên có nhiều tao nhân, mặc khách thường đến đó du ngoạn. Trên núi có một cái quán, lập ra để đón những khách đăng sơn muốn nghỉ chân uống trà, hay mượn chén cho hứng khởi nguồn thi tứ.
Một buổi sáng mùa xuân, chủ quán coi bộ vui vẻ, chợt thấy một người khách lạ vào quán. Khách trông có vẻ hào hoa, phong nhã, khác hẳn người thường. Lúc đàm đạo, chủ quán thấy khách là người lịch thiệp, bất giác đem lòng kính mộ. Khách có ý muốn ở lâu, chủ quán vội sai dọn một căn buồng sạch sẽ hơn cả để lưu khách lại…
Ngày lại ngày qua, cứ đến bữa ăn thì khách về, ăn xong lại đi chơi, rong ruổi không ai biết là đi đâu và làm những việc gì. Được gần nửa năm như thế, không thấy ông khách đả động gì đến tiền nong cả, chủ quán trong lòng cũng đâm lo ngại. Nhiều lúc muốn hỏi lại thôi, vì mấy khi gặp được ông khách hào hoa lịch sự như thế, nếu nhắc đến tiền chẳng hóa ra mình bất nhã với khách lắm ru! Một hôm, khách mời chủ quán đến bảo rằng:
Ta có việc vội phải đi ngay, nên có lời từ biệt và cảm ơn chủ quán đã có lòng hậu đãi ta. Còn về việc tiền nong, quả tình là ta không có, nhưng ta đã có cách bù lại số tiền ấy để đền công.
Chủ quán thấy khách nói thế, lấy làm phân vân khó nghĩ, nhưng vì việc đã xảy ra như thế còn biết tính sao, đành để tùy ý ông khách định liệu. Đang khi lưỡng lự, chợt thấy ông khách lấy ra một ít thuốc hòa với nước, rồi lấy bút vẽ lên trên tường một con hạc màu vàng, lớn hơn con hạc thật. Vẽ xong, khách dặn rằng:
– Khi nào đông người, hay có tao nhân mặc khách đến uống rượu, thì mời hạc ra múa cho khách xem. Múa xong lại bảo nó lui vào chỗ cũ, và chớ nên khinh xuất lúc nào cũng sai hạc ra múa cho bất kỳ ai xem. Làm như vậy, nhà ngươi sẽ có nhiều khách đến thưởng thức và sẽ kiếm được nhiều tiền.
Chủ quán đành phải nghe theo. Khách từ biệt mà đi.
Sau khi khách đi rồi, chủ quán muốn thử xem lời ông khách có đúng không, vội sai hạc ra múa cho mình xem trước. Nhưng hạc không ra, cứ đứng nguyên một chỗ, chẳng hề động đậy. Chủ quán lấy làm bực mình, tự nghĩ cho là ông khách đã lừa dối, và định tâm hôm nào sửa sang lại tửu quán sẽ quét vôi lên con hạc ấy cho mất hết dấu vết đi khỏi bận lòng nghĩ đến nữa.
Cách ít lâu sau, nhân việc sửa sang lại quán, sẵn có vôi liền quét lên trên con hạc, nhưng lạ thay quét xong, lúc vôi khô, hạc lại hiện rõ ra. Quét hết lượt này đến lượt khác, nó vẫn cứ đứng trơ trơ. Thấy sự lạ lùng, chủ quán đành thôi không quét nữa.
Khi dọn dẹp nhà cửa xong xuôi, một hôm có khách từ phương xa đến uống rượu. Lúc ngà ngà say, khách hỏi thăm chủ quán về bút tích con hạc ở trên tường, khen ai khéo vẽ mà nét bút trông linh hoạt thế? Chủ quán kể chuyện lại, khách nghe xong yêu cầu chủ quán thử mời hạc một lần nữa xem sao. Chủ quán chiều ý ra mời. Bỗng nhiên, hạc từ từ ở trong tường nhảy ra, vẫy cánh múa cho khách xem mấy điệu rất là ngoạn mục. Múa xong, hạc lại trở về chỗ cũ. Khách vỗ tay tán thưởng không ngớt lời, cho đấy là một sự lạ chưa từng thấy.
Câu chuyện hạc múa dần dần đồn đại đi khắp mọi nơi, cho nên có rất nhiều người rủ nhau lên uống rượu để xem hạc. Quán rượu từ đấy lúc nào cũng đông khách tấp nập ra vào. Chủ quán thu được một mối lợi to vô kể…
Ba năm sau, cũng một buổi sáng mùa xuân, ông khách năm xưa lại lững thững đến. Chủ quán vội chạy ra tiếp đón một cách rất cung kính. Khách hỏi rằng:
– Chủ quán còn nhớ ta là ai không?
Chủ quán thưa:
– Thưa Ngài, tôi vẫn còn nhớ, và nhờ có con hạc của Ngài, nên bây giờ tôi khá hơn trước nhiều.
Khách lại hỏi:
– Thế đã đủ số tiền uống rượu của ta chưa?
– Bẩm đủ lắm rồi ạ! Quá cả số tiền ấy nhiều lắm!
– Vậy hôm nay ta đến xin hạc về.
Nói dứt lời, khách lấy ống tiêu ra thổi một khúc du dương, trầm bổng. Hạc nghe thấy tiếng tiêu, vội nhảy ra đứng ở bên cạnh. Khách lại nói:
– Ta là Lã Đồng Tân đây, thật ra ta có cần chi đến miếng ăn hớp uống đâu, vì thấy nhà ngươi phúc hậu, nên muốn thử lòng nhà ngươi đấy thôi. Mong rằng nhà ngươi lúc nào cũng nên giữ vững một lòng hiền đức thì đời sau con cháu sẽ được hưởng lộc Trời lâu dài..
Nói xong, cưỡi hạc bay đi mất. Chủ quán nhớ ơn mới xây một cái lầu ở trên núi đặt tên là Hoàng Hạc lâu, và sự tích Hoàng Hạc lâu cũng được truyền tụng tự đó.
Về năm Khai Nguyên nhà Đường, có một danh sĩ tên là Thôi Hiệu người đất Biện Châu đỗ tiến sĩ, làm quan đến chức Tư Huân Viên Ngoại Lang, lúc qua chơi đất Vũ Xương, lên lầu uống rượu nhìn ra thấy phong cảnh rất nên thơ, nhớ đến người xưa, cảm hứng bèn phóng bút đề một bài thơ mà các bạn vẫn thường đọc dưới đây:
Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ,
Thử địa không dư Hoàng Hạc lâu.
Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản,
Bạch vân thiên tải không du du.
Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ,
Phương thảo thê thê Anh Vũ châu.
Nhật mộ hương quan hà xứ thị?
Yên ba giang thượng sử nhân sầu.
Xin tạm dịch:
Người xưa đã cưỡi hạc vàng đi,
Lầu Hạc còn đây, dấu vẫn ghi,
Một sớm, hạc vàng xa lánh hẳn,
Ngàn năm mây trắng vẩn vương chi.
Nước êm sông Hán, cây im bóng,
Hương ngát châu Anh, cỏ phẳng lì.
Chiều xuống, quê hương đâu tá nhỉ?
Đầy sông khơi sóng gợi sầu bi.
Khi Lý Thái Bạch lên núi du ngoạn, thấy cảnh đẹp cũng định đề thơ, lúc vào chơi lầu Hoàng Hạc nhìn lên đã thấy có bài thơ của Thôi Hiệu ở đấy rồi. Lý Thái Bạch xem xong bài đó, thấy không còn gì nói hơn được nữa, chỉ ghi lại có bốn câu sau đây:
Lưỡng thủ bất khai Hán Dương thụ,
Nhất túc dịch hoán Anh Vũ châu.
Nhãn tiền hữu cảnh đạo bất đắc,
Thôi Hiệu đề thi tại thượng đầu.
Xin tạm dịch là:
Hàng cây sông Hán, đôi tay dẹp,
Lối cỏ châu Anh, một bước di.
Có cảnh, mắt nhìn không tả được,
Trên đầu Thôi Hiệu đã đề thi.
Bốn câu trên đây khiến ta khó hiểu tâm sự của Lý Thái Bạch lúc bấy giờ, nhưng xem ra có vẻ bực tức. Ông tự lấy làm giận, giận không đề được thơ vào lầu Hoàng Hạc, bèn về Kim Lăng, lên Phượng Hoàng đài đề một bài thơ Phượng Hoàng đài hay không kém gì bài Hoàng Hạc lâu, để có ý muốn sánh với ông Thôi Hiệu.
Nếu có dịp, tôi sẽ gửi đăng bài ấy để các bạn đọc nhàn lãm.
Nguyễn Văn Nhân
Đăng trên Văn Hóa Nguyệt San số 4 tháng 8-1952
Theo bản scan đăng trên Nhà Kho Quán Ven Đường do Huỳnh Chiếu Đẳng sưu tập và chia sẻ (ndclnh-mytho-usa.org)
Xem thêm:
Công ty có trụ sở tại California này cho biết họ sẽ loại bỏ khả…
Máy sấy tóc khách sạn thường chứa vi khuẩn và nấm.
Nhật Bản là quốc gia có tỷ lệ béo phì thấp nhất thế giới và…
Đối với nhiều gia đình, sự tiện lợi của thực phẩm siêu chế biến rất…
Nhiều tiệm vàng nổi tiếng như Kim Chung, Kim Liên, Lan Hương đồng loạt đóng…
Dự án trụ sở Bộ Ngoại giao vượt vốn 904 tỷ, chỉ định thầu 20…