Hiện nay bên hồ Tây vẫn còn đó một ngôi mộ đã 600 năm tuổi, ít ai để ý rằng đó là nơi an nghỉ của Trạng nguyên Vũ Tuấn Chiêu với bài Văn sách nổi tiếng hiến kế làm cho binh mạnh và biện pháp khiến cho dân giàu.

Trạng Nguyên
Mộ của Trạng nguyên Vũ Tuấn Chiêu bên hồ Tây. (Ảnh tư liệu sưu tầm từ Facebook)

Sự nghiệp của ông cũng gắn liền với hình ảnh người vợ tần tảo lam lũ, không quản mưa gió với mong muốn được nhìn thấy chồng mình đỗ đạt.

Tuổi thơ đầy gian khó

Vũ Tuấn Chiêu người làng Xuân Lôi, xã Cổ Ra (nay thuộc xã Nam Hùng, huyện Nam Trực, Nam Định), đỗ Trạng Nguyên vào năm 1475, khi đó ông đã ngoài 50 tuổi và là một trong 3 vị Trạng Nguyên già nhất.

Con đường khoa bảng của Vũ Tuân Chiêu rất gian nan. Năm ông 6 tuổi thì cha ông lâm bệnh rồi mất, họ hàng thân thích không nhiều, gia cảnh lâm vào cảnh túng thiếu, mẹ ông phải bán hết nhà cửa, chỉ còn giữ lại mảnh đất hương hỏa.

Cuối cùng hoàn cảnh khó khăn khiến bà phải để lại mảnh đất hương hỏa, nhờ hàng xóm cũng là bạn của chồng là ông Trần Công trông coi giúp. Thế rồi hai mẹ con về quê ngoại ở làng Nhật Thiên, xã Nhật Chiêu, huyện Quảng Đức, ngoại thành Thăng Long, sống nương nhờ sự đùm bọc của nhà ngoại.

Cuộc sống cứ thế trôi qua suốt 10 năm trong khó khăn. Lúc Vũ Tuấn Chiêu 16 tuổi thì cũng là lúc mẹ ông qua đời. Ông quyết định trở lại làng Xuân Lôi, làm ăn sinh sống tại đây.

Người vợ tần tảo, không quản lam lũ tiếp sức cho chồng

Lúc này ông Trần Công đã già, vợ cũng đã mất. Thấy Vũ Tuấn Chiêu đã lớn, mặt mũi tuấn tú, dáng người khỏe mạnh, nên quyết định gả con gái của mình là Trần Thị Chìa cho.

Trần Thị Chìa là cô gái nết na, thùy mị, không quản vất vả, chăm việc ruộng đồng, dệt vải kéo tơ; vừa phụng dưỡng cha già, lại vừa nuôi chồng ăn học.

Năm 1459, ông Trần Công mất, Trần Thị Chìa dồn sức chăm lo cho chồng ngày đêm đèn sách, mong có ngày ông vinh quy bái tổ.

Tuy Vũ Tuấn Chiêu mặt mày khôi ngô nhưng học hành lại tối dạ. Mười mấy năm đèn sách, ngày ngày đều đến thầy, nhưng không mấy tiến bộ. Mặc dù vậy, ông vẫn kiên trì cố gắng, dù tuổi đã ngoài tứ tuần nhưng vẫn đến lớp học cùng đám hậu sinh tóc còn để chỏm.

Biết chồng học kém nhưng bà Chìa vẫn kiên trì khuyên nhủ chồng chịu khó học hành. Hàng tháng đều đặn bà gánh gạo từ nhà đến Hạ Vũ (nay là thôn Vũ Lao, xã Nam Tân, huyện Nam Ninh, tỉnh Nam Định), lại đưa thêm tiền chu cấp để ông yên tâm ăn học.

“Nước chảy đá mòn” lời vợ dạy khiến Vũ Tuấn Chiêu bừng tỉnh

Có lần bà Chìa gánh gạo đến, thầy giáo gặp mặt rồi nói muốn trả chồng về vì học kém quá, cứ như thế thì ở nhà cày ruộng còn hơn, thầy giáo nói: “Trò Chiêu tuổi đã nhiều, học không tấn tới, nay ta cho về giúp con việc nhà, việc đồng ruộng cho bớt bề vất vả”.

Bà Chìa xin hết lời, nhưng thầy giáo vẫn không thay đổi ý định, bà đành chào thầy rồi cùng chồng thu xếp quần áo sách vở trở về nhà. Đến đầu làng, hai vợ chồng dừng chân nghỉ bên chiếc cầu đá bắc qua nhánh sông nhỏ. Vũ Tuấn Chiêu nhìn thấy mấy cây cột đá chân cầu bị mòn vẹt mới ngạc nhiên hỏi vợ, bà Chìa đáp rằng:

“Nước chảy lâu ngày đã làm mòn những cột đá của cây cầu! Chàng thấy đấy, cột đá là vật cứng rắn, dòng nước thì mềm nhưng qua năm tháng cứ chảy mãi lâu ngày khiến cho đá cũng phải mòn, cho nên làm việc gì nếu có chí, sự kiên trì, nhẫn nại tất sẽ thành”.

Lời người vợ hiền khiến Vũ Tuấn Chiêu bừng tỉnh, ông bảo vợ về nhà, còn mình mang quần áo sách vở trở lại để tiếp tục học, gặp thầy ông thưa rằng:

“Nước chảy đá mòn, thưa thầy việc học cũng như vậy, nếu có chí học thì thế nào cũng sẽ khá lên. Nay con trở lại trường quyết tâm dùi mài kinh sử, mong một ngày chiếm tên trên bảng vàng, trước là khỏi phụ công ơn dạy dỗ của thầy, sau là đền đáp tấm lòng của vợ và cũng là để thỏa cái chí của con”.

Dù lời nói rất có khẩu khí, nhưng thầy giáo không còn tin tưởng vào người học trò đã rất lớn tuổi này rồi, nên tìm cớ để đuổi học trò này về. Thầy nghĩ ra một vế đối là “Lác đác mưa sa làng Hạ Vũ”, sau một lúc suy nghĩ Tuấn Chiêu đối rằng: “Ầm ì sấm động đất Xuân Lôi”.

Vế đối làm thầy đồ hài lòng, từ đó ông được ở lại tiếp tục dùi mài kinh sử, sức học cũng tiến dần lên. Trong 5 năm tiếp theo, bà Chìa tóc đã hoa râm, già theo năm tháng, bà vẫn vừa lo việc ruộng vườn, chăm sóc con cái, lại đều đặn gồng gánh đem gạo, mang dầu thắp đèn và tiền bạc từ nhà đến nơi trọ học của chồng cho đến khi lâm bệnh mất. Năm đó Vũ Tuấn Chiêu đã gần 50 tuổi.

Bài văn sách nổi tiếng giúp đỗ Trạng Nguyên

Sau khi vợ mất ít lâu, Vũ Tuấn Chiêu cùng con một lần nữa trở lại quê ngoại của mình ở làng Nhật Thiên, xã Nhật Chiêu, vì nơi đây gần kinh thành, tiện cho việc học hành và thi cử.

Khoa thi Ất Mùi (1475) niên hiệu Hồng Đức năm thứ 6 đời Lê Thánh Tông, ông về kinh ứng thí, vượt qua kỳ thi Hội, ông lọt vào kỳ thi Đình. Tại kỳ thi này vua Lê Thánh Tông hỏi về phương kế làm cho binh mạnh và biện pháp khiến cho dân giàu.

Vũ Tuấn Chiêu đã làm bài văn sách của mình với kiến giải sâu sắc, bài văn sách này vẫn được lưu lại trong cuốn gia phả của họ Vũ ở phường Nhật Tân (Quận Tây Hồ, Hà Nội) gồm 23 trang, mỗi trang 8 dòng, mỗi dòng từ 4 đến 31 chữ.

Trong bài văn sách, Vũ Tuấn Chiêu cho rằng việc lớn nhất của người đứng đầu nhà nước là phải lo cho dân giàu nước mạnh. Ông trả lời:

Việc lớn của chính sự là phải làm cho binh mạnh dân giàu. Bởi vì dân là gốc của nước, binh có quan hệ tới sự mạnh yếu của nước. Cho nên bậc thánh phải lo nghĩ điều đó… Than ôi! Binh mạnh thì trong nước yên ổn, bên ngoài thần phục, nước sẽ vững như bàn thạch. Dân giàu thì lễ nghĩa được thi hành, giáo hóa cũng theo đó trở nên tốt đẹp. Thần kính nghĩ: Phế bỏ một việc, chấn hưng một việc cần phải hợp lòng dân. Nếu phế bỏ một việc nào đó mà nước nhà không có lợi, khôi phục một việc nào đó dân nghi ngờ không yên, há không lo lắng sao.

Về kế sách làm cho binh mạnh, ông trả lời: “Kế sách làm cho binh mạnh là việc làm. Kinh Dịch nói: “Bậc quân tử diệt trừ mọi rợ, việc khí giới không thể không lo”. Sử nhà Hán có chép: “Binh sĩ không tinh thì đem tướng cho kẻ thù, nhà vua không chọn tướng giỏi thì ném quân cho kẻ địch”. Ông mạnh dạn xin nhà vua dùng nhà Nho để cai quản việc quân. Ông viết: “Thần cúi xin bệ hạ hãy dùng nhà Nho để cai quản việc quân thì quân sẽ mạnh”. Ông quan niệm nhà Nho ở đây rất rộng. Không phải chỉ những người học rộng văn hay mà cả những người biết quên mình vì nước, yêu dân như con:

Thần cho rằng nhà Nho không phải chỉ học rộng văn hay, thông kinh bác sử mà thôi. Những người đối với thân huân có lòng dũng khí, cố gắng quên mình, dẫu không học rộng cũng vẫn là nhà Nho chân chính. Không chỉ đòi hỏi, yêu dân như con dẫu không giỏi văn cũng là nhà Nho nhân nghĩa. Trong bọn võ thần có kẻ giữ mình trong sạch, chăm chỉ luyện tập, dù không xuất thân từ kinh sử cũng là nhà Nho vậy. Biết mình biết người, gặp sự quyết đoán, tuy không phải kẻ học hành vẫn là bậc trí nho. Việc lựa chọn bảo cử nên công minh. Mọi việc nên ủy thác cho bậc quân tử có học thức. Lại ban lệnh mở mang việc học tập, nghiêm việc truất giáng. Công dẫu nhỏ cũng nên ban khen, kẻ phạm tội dù có công cũng không tha thứ. Như vậy chọn đúng tướng soái, quân lữ có lệnh, sĩ tốt được thư nhàn, lo gì việc binh không mạnh.

Về biện pháp lo cho dân giàu ông viết:

Ôi! Binh mạnh là để giữ nước, phương kế làm cho dân giàu cũng là việc cần nêu. Hán sử chép: “Việc tích lũy là mạng sống của đất nước.” Kinh Thi có câu: “Hãy tiết kiệm, hãy làm nhà kho, hãy tích lương thực”, nếu làm được như thế, nước không thể không giàu”. Sự giàu có là để nuôi dân, kho đụn của nhà nước chứa đầy, việc hiến cống của nơi phên dậu được chất đống. Ngày lại ngày như thế thì nước sẽ giàu có. Thần cúi xin bệ hạ dùng Nho để chăn dân, nhưng phải dùng kẻ Nho có phẩm chất, có tác dụng. Giảm bỏ kẻ ăn không bớt chi tiêu phung phí, thực hành chế độ tiết kiệm để của cải sinh sôi, muôn họ giàu có. Vậy lo gì nước không giàu.

Vậy muốn cho dân giầu nước mạnh, người đứng đầu nhà nước phải không quên cảnh giác. Ông viết:

Tuy nhiên thuyền bị lật không phải do đường rộng mà lo lúc cập bến, xe đổ không phải nơi độc đạo mà thường ở chỗ đường bằng. Loạn nảy sinh không phải ở lúc đang lo dẹp loạn mà ở yên bình. Các bậc đế vương quân thần phải cùng nhau cảnh giới khi lời rèm còn chưa nảy sinh. Thần mong muốn bệ hạ chăm lo sửa sang giềng mối tôn sùng Nho thuật, xét soi mọi việc. Như vậy mầm mống gây loạn tất bị ngăn chặn, người dám nói thẳng hướng theo. Dùng hiền tài chớ có hai lòng, vứt bỏ bọn sàm nịnh, không đắn đo, như thế thì bệ hạ sẽ có bề tôi giỏi, có tướng hiền tài, chính sự phấn phát, muôn dân được chăm lo, bốn phương yên ổn, vậy còn lo gì nền trị bình không được thực thi, lo gì mầm loạn không được dẹp bỏ…

Bài Văn sách của Vũ Tuấn Chiêu là một trong 3 bài xuất sắc nhất kỳ thi lần này, hai bài văn sách khác đó là của Cao Quýnh (người đỗ đầu thi Hội) và Ông Nghĩa Đạt, điều này khiến nhà Vua khó để chấm xem ai sẽ đỗ Trạng Nguyên.

Để thử tài 3 người, nhà Vua bèn ra câu đố:

Thượng bất thượng
Hạ bất hạ
Chỉ nghi tại hạ
Bất khả tại thượng

Nghĩa là:

Ở trên mà chẳng ở trên
Ở dưới mà không ở dưới
Chỉ có ở dưới
Không thể ở trên

Rồi Vua đố rằng đó là chữ gì? Trong khi Cao Quýnh và Ông Nghĩa Đạt đang suy nghĩ thì Vũ Tuấn Chiêu đã đoán ra đó là chữ nhất (一). Vua Lê Thánh Tông liền chấm Vũ Tuấn Chiêu đỗ đầu tức Trạng Nguyên, thứ nhì là Ông Nghĩa Đạt đậu Bảng Nhãn, danh hiệu Thám hoa thuộc về Cao Quýnh.

Khi đậu Trạng nguyên, Vũ Tuấn Chiêu đã ngoài 50 tuổi và là một trong 3 vị Trạng Nguyên già nhất trong lịch sử khoa bảng Việt Nam.

Vũ Tuấn Chiêu làm quan trải nhiều chức vụ, sau này giữ tới chức Tả thị lang bộ Lại, tước Đặc tiến Kim tử vinh lộc đại phu. Sự nghiệp của ông có công lao to lớn của người vợ hiền tần tảo, tiếc rằng bà lại không thể chứng kiến ngày vinh quy bái tổ của chồng mình.

Trạng Nguyên
Họ Vũ kỷ niệm ngày mất Trạng nguyên Vũ Tuấn Chiêu. (Ảnh: Hovuvovietnam.com)

Sau khi ông mất Triều đình phong là “Tuấn lương Quang ý tôn thần”, sau gia tặng thêm làm “Dực bảo Trung hưng, Linh phù tôn thần”.

Trạng Nguyên
Đền thờ Trạng nguyên Vũ Tuấn Chiêu. (Ảnh: Hovuvovietnam.com)

Hiện nay nhà thờ chính của Vũ Tuấn Chiêu ở xã Nam Hùng, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định vẫn còn đó tấm bia đá ghi lại 17 đôi câu đối ca ngợi sự thành đạt và công lao của ông đối Giang Sơn Xã Tắc. Trong đó có câu:

Hồng Đức văn chương khôi nhất giáp
Xuân Lôi trở đậu lịch thiên thu.

Nghĩa là:

Đời Hồng Đức văn chương nêu nhất giáp
Đất Xuân Lôi thờ cúng nghìn thu.

Trần Hưng

Xem thêm: