Trí tuệ cổ nhân: Khi nghèo khó thì tu đức, khi giàu thì làm lợi cho thiên hạ
- An Hòa
- •
Người quân tử xưa ứng xử với mọi việc đều rất trí tuệ, ở vào hoàn cảnh khác nhau họ sẽ lựa chọn cách sống khác nhau, thuận theo tự nhiên, nhưng đều không làm tổn hại đạo nghĩa, đều đặt thiện lên hàng đầu, lấy tu dưỡng bản thân và nhân từ với mọi người làm nguyên tắc.
Mạnh Tử nói: “Người xưa khi đạt được chí hướng thì mang phước lành tới cho dân chúng; khi không đạt được chí hướng thì họ tu dưỡng bản thân và truyền bá đức hạnh của mình cho thế gian. Trong cảnh nghèo khó, họ tu dưỡng đức hạnh của mình; khi giàu có, họ làm lợi cho thiên hạ.”
Con người ta khi gặp cảnh khó khăn họa nạn là dễ nhụt chí nhất, dễ vì khổ sở mà bỏ qua các nguyên tắc của bản thân. Nhưng người thật sự có tu dưỡng thì không vì hoàn cảnh bất lợi mà từ bỏ những nguyên tắc cơ bản của mình. Cũng như vậy, khi một người có được giàu có và địa vị, ở trên người khác rồi thì sẽ dễ bị cám dỗ nhất, dễ vì sự thoải mái an nhàn và quyền thế mà mất đi nhân cách của chính mình. Do vậy câu nói của Mạnh Tử có ý khuyên một người hãy giữ vững đạo đức cá nhân, giữ gìn đạo đức dù có gặp nghịch cảnh hay thuận cảnh. Dù có được vị thế thuận lợi hay không, hãy giúp đỡ và mang lại lợi ích cho người khác và cho xã hội.
Nhân vật ứng với “khi đạt được chí hướng thì mang phước lành tới cho dân chúng” nổi tiếng nhất trong lịch sử có lẽ là Gia Cát Lượng. Ông vốn ẩn cư nơi lều tranh, phóng khoáng, không gò bó.
Trong “Đại mộng thùy tiên giác” của tác giả La Quán Trung đã mô tả rằng:
Đại mộng thùy tiên giác? Bình sinh ngã tự tri
Thảo đường xuân thụy túc, song ngoại nhật trì trì.
Tạm dịch:
Trong giấc mộng lớn, ai là người sớm tỉnh? Trong cuộc đời này ta tự biết ta.
Đang yên giấc ngủ trong nhà cỏ, bên ngoài cửa sổ ngày tháng cứ chậm rãi trôi qua.
Tuy là thơ của La Quán Trung, nhưng nội dung bài thơ lại phản ánh đúng hoàn cảnh của Gia Cát Lượng lúc bấy giờ. Đây chính là trạng thái của Gia Cát Lượng trước khi xuất sơn, sống một cuộc sống an nhàn ẩn dật trên núi.
Nhưng sau khi được Lưu Bị mời ra trợ giúp hoàn thành đại nghiệp, ông đã “cúc cung tận tụy” hết lòng phụng sự Lưu Bị và phụng sự nhà Thục Hán cho đến hơi thở cuối cùng. Đặc biệt, những việc làm của ông ở nước Thục đã chứng minh lòng trung thành và tận tâm của ông.
Suốt cuộc đời, Gia Cát Lượng chưa bao giờ dao động, luôn giữ vững hoài bão. Khi ẩn cư, ông tu dưỡng bản thân, còn khi xuất thế, ông phụng sự xã hội. Ông thuận theo tự nhiên, tận lực hoàn thành việc mình nên làm.
Nói về “khi không đạt được chí hướng thì họ tu dưỡng bản thân và truyền bá đức hạnh của mình cho thế gian” thì Đào Uyên Minh, một thi nhân thời nhà Tấn, có một bài thơ rất hay như vậy:
Ẩm tửu. Kỳ ngũ
Kết lư tại nhân cảnh, nhi vô xa mã huyên
Vấn quân hà năng nhĩ? Tâm viễn địa tự thiên
Thải cúc đông li hạ, du nhiên kiến nam sơn
Sơn khí nhật tịch giai, phi điểu tương dữ hoàn
Thử trung hữu chân ý, dục biện dĩ vong ngôn.
Tạm dịch:
Dựng nhà giữa chốn nhân gian, không ngựa xe ồn ã
Người hỏi ta sao làm được thế? Lòng xa cảnh tự nhàn
Hái hoa cúc bên hàng rào phía Đông, thong thả ngắm nhìn dãy núi phía Nam
Không khí núi non lúc hoàng hôn thật đẹp, chim chóc cùng nhau bay về
Ý nghĩa chân chính nằm ở đó, nhưng ta đã quên mất ngôn từ để diễn tả.
Đào Uyên Minh vốn ưa thanh tĩnh, yêu thích đạo và đời sống thuận theo tự nhiên. Năm 27 tuổi, ông bắt đầu cày cấy ở nông thôn, sống cuộc đời giản dị. Tuy từng vì mưu sinh và trách nhiệm với mẹ già, con nhỏ mà ra làm quan Tế tửu Giang Châu, nhưng do chốn quan trường thời đó không phù hợp với chí hướng đạo nghĩa của ông, ông lại quay về quê làm ruộng, cùng người vợ hiền hòa chăm lo gia đình.
Đến năm 35 tuổi, vì áp lực sinh kế Đào Uyên Minh lại ra làm quan, lần này giữ chức huyện lệnh Bành Trạch. Tuy nhiên, chỉ hơn 80 ngày sau, vì khinh ghét việc phải cúi mình vì lợi lộc, làm tổn hại bản tâm, ông đã từ quan và vĩnh viễn rời xa chốn quan trường. Dù cuộc sống về sau gặp nhiều khó khăn: thiên tai, nhà cháy, túng thiếu, ông vẫn giữ vững chí hướng ẩn dật, quyết không trở lại làm quan, thậm chí từ chối cả sự trợ giúp hay lời mời làm quan từ triều đình.
Phải chăng Đào Uyên Minh khuyết thiếu tài năng? Qua thơ của ông để lại cho đời, hậu thế có thể khẳng định là ông có đủ tài năng. Nhưng ông nguyện chịu sống trong đói khổ là vì không để bản thân lạc vào danh lợi tình hay những phù hoa nơi thế tục, những tranh đấu nơi quan trường. Vì không thể thành tựu được mong muốn đóng góp cho xã hội nên ông đã tập trung vào việc tu dưỡng bản thân mình.
Hái hoa cúc bên hàng rào phía Đông, thong thả ngắm nhìn dãy núi phía Nam
Không khí núi non lúc hoàng hôn thật đẹp, chim chóc cùng nhau bay về
Ý nghĩa chân chính nằm ở đó, nhưng ta đã quên mất ngôn từ để diễn tả.
Đào Uyên Minh dựng một túp lều tranh ở nơi hẻo lánh ít người, lúc bình thường không nghe thấy tiếng ngựa xe. Ở nơi ấy, ông có thể ngắm nhìn cảnh đẹp lúc hoàng hôn buông xuống, cảnh chim chóc bay về tổ. Và câu cuối cùng của bài thơ mang hàm ý tu Đạo, phản bổn quy chân. Ông đã ngộ ra rằng sinh mệnh một người chính là để tu Đạo trở về, nhưng lại phát hiện ra không cách nào dùng ngôn ngữ để biểu đạt và giải thích toàn diện ý nghĩa của điều đó.
Lựa chọn của Đào Uyên Minh không phải là buông bỏ bản thân, mà là tu dưỡng bản thân. Kỳ thực, trong cuộc sống, có rất nhiều khi là như vậy, năng lực có nhưng lại không được giao những trọng trách lớn, không được trọng dụng, lúc ấy cưỡng cầu chính là cố chấp.
Trong cuộc đời có những thời điểm chúng ta rất khó để đạt được như mong muốn. Nhưng dù thế nào đi nữa, ở bất cứ thời điểm nào, đều có thể làm được tu dưỡng bản thân, dùng lòng nhân từ đối đãi với mọi người thì đó mới là điều làm nên giá trị của cuộc sống, cũng là điều khiến người ta không cảm thấy sống uổng phí cuộc đời này.
Theo Zhengjian.org
Tác giả: Hân Hân
An Hòa biên tập
Xem thêm:
Mời xem video:
Từ khóa trí tuệ cổ nhân


















![[VIDEO] Đạo làm thầy của người xưa qua tuyệt tác “Sư đạo”](https://trithucvn2.net/wp-content/uploads/2024/11/Dạo-làm-thầy-của-người-xưa-qua-tuyệt-tác-Sư-dạo-web-446x295.jpg)











