Trong mối quan hệ cha con, đôi khi chúng ta không nhận ra rằng sự im lặng, sự thiếu giao tiếp có thể không chỉ là kết quả của sự hiểu lầm hay xung đột với cha, mà lại phản ánh chính những cảm xúc không được giải quyết trong chính bản thân mình. Bài viết này sẽ kể về hành trình phát hiện ra rằng, thay vì ghét bỏ cha, tác giả thực sự đang chạy trốn và không chấp nhận những phần không hoàn hảo trong chính mình.

pha vo tuong bang voi cha
Trong mối quan hệ cha con, đôi khi chúng ta không nhận ra rằng sự im lặng, sự thiếu giao tiếp có thể không chỉ là kết quả của sự hiểu lầm hay xung đột với cha, mà lại phản ánh chính những cảm xúc không được giải quyết trong chính bản thân mình. (Ảnh minh hoạ: Shutterstock)

Chú thích của biên tập viên: Tác giả đã trải qua 18 năm không giao tiếp với cha mình. Nhờ một cơ hội học tập về phương pháp Satir, tác giả học cách nhìn nhận vấn đề một cách toàn diện. Qua quá trình đó, tác giả thoát khỏi tình trạng khó khăn trong cuộc sống và bắt đầu hành trình cùng cha vượt qua những bức tường băng. Dần dần, mối quan hệ cha con trở nên gần gũi và khăng khít hơn.

Hành trình hòa giải với cha tôi

Tôi đã từng không nói chuyện với cha suốt 18 năm. Bởi vì mỗi lần chúng tôi nói chuyện, lại xảy ra cãi vã, quá đau khổ. Không nói chuyện, không tương tác, có lẽ sẽ tốt hơn rất nhiều.

Sau khi mẹ tôi qua đời trong một vụ tai nạn xe hơi, tôi buộc phải tương tác lại với cha, nhưng những trải nghiệm đau khổ ấy lại quay trở lại. Tôi mất hơn hai năm để hòa giải với cha.

Tôi đã nhiều lần trò chuyện với người anh rất thân thiết là Lý Sùng Kiến để hiểu thêm về bản thân và cha mình, từ đó giúp tôi chấp nhận bản thân cũng như cha, đồng thời thúc đẩy quá trình hòa giải mối quan hệ cha con.

Một lần trong buổi trò chuyện, tôi nói với Sùng Kiến rằng tôi rất tức giận cha. Anh ấy hỏi tôi rằng tôi tức giận vì điều gì?

“Do tự đánh mất mình”, tôi trả lời.

Sùng Kiến muốn tôi nói rõ thêm một chút.

Tôi nói, sau khi cha tôi bị ép nghỉ hưu, ông bắt đầu tự đánh mất mình, bắt đầu sống buông thả, tự nhốt mình trong nhà, mỗi ngày chỉ xem các chương trình chính trị, tối thì xem truyền hình trực tiếp, ban ngày thì xem lại các chương trình. Không chỉ tự mình không ra ngoài, ông còn ngăn cản mẹ tôi đi du lịch. Mỗi khi mẹ muốn đi du lịch, hoặc tham gia các cuộc thi bơi ở các nơi như hồ Nhật Nguyệt, bãi biển Tây Tử Loan, khuôn mặt cha tôi sẽ sa sầm xuống, bắt đầu tức giận. Mẹ tôi đã khóc kể với tôi không chỉ một lần.

Còn gì nữa không? Sùng Kiến nói tôi hãy kể thêm một vài ví dụ khác.

Tôi nói, cha tôi bị bệnh Parkinson, tay phải của ông thường xuyên run rẩy không tự chủ. Khi mẹ còn sống, mọi việc trong gia đình đều phụ thuộc vào mẹ. Sau khi mẹ qua đời, để xử lý các thủ tục thừa kế, nhiều giấy tờ phải được cha tôi ký tên, nhưng tay phải của ông không thể viết được, tôi đã khuyên ông tập viết bằng tay trái, nhưng ông chỉ tập một ngày rồi bỏ cuộc.

Sùng Kiến nhìn tôi, càng nói tôi càng tức giận, anh ấy dừng lại một hồi lâu, rồi mới dùng giọng điềm tĩnh hỏi: “Chí Trọng, trong cuộc đời của em, có bao giờ trải qua cảm giác tự đánh mất mình không?”

Tôi ngẩn người một hồi, rồi trả lời một cách dứt khoát: “Không có”.

Sự hiểu biết của tôi về bản thân hồi đó thật nông cạn! Luận văn thạc sĩ của tôi nghiên cứu về nhà thơ nổi tiếng thời trung Đường Liễu Tông Nguyên, tôi hiểu rõ về gia thế, sự nghiệp, bạn bè, tính cách của ông ấy, nhưng tôi lại hoàn toàn không hiểu bản thân mình, và còn cho rằng mình không phải là người dễ dàng bỏ cuộc.

Sùng Kiến yêu cầu tôi suy nghĩ thêm về vấn đề này.

Sau đó, tôi mới dần nhận ra: Thực ra, tôi cũng có rất nhiều lần tự đánh mất mình, và tôi ghét bản thân mình như vậy. Phát hiện này khiến tôi rất sợ hãi: Hóa ra, người tôi ghét không phải cha mình, mà là chính mình. Tôi đã trút cảm giác ghét bỏ đối với sự tự đánh mất bản thân lên cha tôi. Cách tôi nhìn nhận bản thân sẽ ảnh hưởng đến cách tôi nhìn người khác.

Bắt đầu học cách nhận thức, mới có thể tiếp nhận 

Tuy nhiên, chỉ có nhận thức lần này là chưa đủ, chẳng bao lâu sau tôi lại quên mất. Trong một lần trò chuyện khác, tôi lại nói về việc mình không thích nhiều đặc điểm ở cha, Sùng Kiến yêu cầu tôi liệt kê ra ba đặc điểm.

Tôi không suy nghĩ thêm, trả lời ngay lập tức: “Cố chấp, áp đặt, buồn bã”.

Sùng Kiến dừng lại một lúc, rồi hỏi lại: “Chí Trọng, ba đặc điểm này, em có không?”

Tôi nghe vậy, bất ngờ nhận ra. Lần này, tôi thành thật thừa nhận, tôi cũng có cả ba đặc điểm đó.

Phát hiện này khiến tôi nhất thời không biết phải làm sao: Làm sao lại có chuyện này? Sao tôi lại ghét bản thân mình đến vậy? Và lại đổ lên cha tôi? Chẳng lẽ tất cả đều là vấn đề của bản thân tôi, không có chút nào là do cha tôi sao?

“Chí Trọng à, lấy buồn bã làm ví dụ, đặc điểm này đã từng mang lại cho em lợi ích gì không?” Sùng Kiến hỏi.

Tôi nghe vậy, không kìm nén được sự xúc động, nói: “Sao có thể? Buồn bã chỉ khiến em rơi vào những nỗi đau kéo dài, khiến em không thể kết bạn được nhiều, không tìm được việc làm, khiến cuộc sống của em trở nên như thế này, nó chỉ mang đến hậu quả xấu, sao có thể mang lại lợi ích gì?”

Sùng Kiến dừng lại một lúc, nhẹ nhàng nói: “Chí Trọng à, có thể không? Sau này, em bắt đầu thích đọc sách, viết lách, em sẽ quan tâm đến văn học, lịch sử, triết học, có thể điều này có liên quan đến tính buồn bã của em không?”

Những lời này giống như một gậy cảnh tỉnh, tôi không thể phản bác. Chỉ trong khoảnh khắc, thế giới của tôi quay cuồng, tôi nhìn chính mình và sự việc dưới một góc nhìn hoàn toàn khác.

Thực ra, những đặc điểm tôi ghét lại có một mặt khác, đó là cái gọi là “điểm mạnh”. Đặc điểm này trong nhiều trường hợp mang đến những điều bất lợi cho tôi, nhưng ở rất nhiều thời điểm,  nó cũng mang đến cho tôi những điều tốt đẹp.

Khi nhìn mọi việc với cái nhìn đa chiều, tôi đã thực sự trải nghiệm điều đó trong cuộc trò chuyện này.

Sau hai cuộc trò chuyện với Sùng Kiến, có hai điều dần dần phát triển trong mối quan hệ giữa tôi và cha:

Một là tôi không chỉ có thể chấp nhận bản thân dễ dàng bỏ cuộc, mà còn dần dần có thể chấp nhận việc cha tôi cũng dễ dàng từ bỏ.

Hai là tôi không chỉ có thể dùng cái nhìn đa chiều để nhìn nhận bản thân, mà cũng dần dần có thể hiểu ra được nhiều điều từ một việc nào đó và dùng cái nhìn đa chiều để nhìn nhận cha mình.

Ví dụ, tôi bắt đầu nhận thấy “sự cố chấp” của cha mang lại cho ông những “điểm mạnh”.

Càng cố chấp, càng kiên trì 

Sau khi mẹ qua đời, cha sống cùng tôi một năm rưỡi. Một ngày nọ, ông bất ngờ ngã tại nhà, từ đó mất khả năng tự chăm sóc và không thể đi lại. Tôi buộc phải đưa ông vào viện dưỡng lão.

Cha không thích quyết định này, ông muốn quay về sống tại nhà, nhưng không muốn khiến tôi khó xử, vì vậy ông tích cực phục hồi ở viện dưỡng lão, hy vọng có thể đứng dậy và tự chăm sóc bản thân. Có một thời gian, ông có thể đi bộ 20 phút mà không cần ai trợ giúp.

Tuy nhiên, chính sự cố chấp của ông lại khiến ông một lần nữa ngã xuống.

Ở trung tâm dưỡng lão, mỗi phòng có năm người, mỗi người một giường, và mỗi giường đều có một chuông yêu cầu trợ giúp. Cha không thích làm phiền người khác, ông chưa bao giờ bấm chuông. Tôi nhiều lần khuyên ông nếu cần gì cứ bấm chuông, nhưng ông rất cố chấp, khăng khăng muốn tự mình làm mọi việc.

Một ngày, ông muốn xuống giường đi lại, khi cúi xuống để buộc dây giày, không may bị ngã ngồi xuống đất. Sau khi được đỡ dậy, chân trái ông đau đớn không thể đi lại. Sau khi kiểm tra tại bệnh viện, bác sĩ cho biết xương chân ông bị nứt và cần phải mổ. Ban đầu, ông có thể tự đi lại, nhưng chính sự cố chấp đã khiến ông phải quay lại ngồi xe lăn, ngay cả việc đứng dậy cũng khó khăn, nói chi là đi lại.

Sau một thời gian phẫu thuật, tôi đến thăm cha tại viện dưỡng lão, thấy ông đang tập đứng tại phòng phục hồi chức năng. Bác sĩ đứng đằng sau đỡ lưng ông, yêu cầu ông nắm tay vào thanh sắt phía trước và tự dùng sức để đứng dậy khỏi xe lăn. Cha tôi vất vả đứng lên, cơ thể lảo đảo, chân run lẩy bẩy, có lúc không thể đứng vững.

Làm như vậy vài lần, nhân lúc ông nghỉ ngơi thì tôi hỏi: “Cha rất mệt phải không?”

Cha tôi gật đầu, thở dài: “Lại phải bắt đầu lại từ đầu, những nỗ lực trước đây đều vô ích”.

Thấy ông khó khăn và gặp phải thất vọng, tôi không khỏi đau lòng nhưng thực sự không thể làm được gì để giúp đỡ.

Cha tôi không bỏ cuộc, tiếp tục tập phục hồi chức năng, mỗi lần tôi đến thăm, ông đều có chút tiến triển, đã dần dần có thể đi lại từ 3 đến 5 mét bằng cách nắm lấy thanh sắt. Có một lần, ông thậm chí đã đi đi lại lại 20 vòng, khiến tôi rất ngạc nhiên. Ông nói, thực ra ông đã có thể đi tới 40 vòng, nhưng vì muốn trò chuyện với tôi nhiều hơn, nên chỉ đi một nửa vào ngày hôm đó.

Khi nghe điều đó, trong lòng tôi không chỉ cảm động mà còn ngưỡng mộ.

Trước đây, tôi luôn cho rằng cha mình cứng đầu và ghét sự cứng đầu đó, nhưng lần này, tôi đã nhìn thấy một mặt khác của sự “cứng đầu”, đó chính là “sự kiên trì”.

Chỉ là, ông có thể kiên trì được bao lâu?

Mười lăm tháng sau, một ngày nọ cha gọi điện cho tôi và yêu cầu tôi mua một đôi giày vải mang đến cho ông.

Tôi rất bối rối, không hiểu ông cần giày vải để làm gì? Nhưng tôi vẫn mang đến.

Khi đến trung tâm dưỡng lão, tôi mới biết lý do: Cha bắt đầu luyện tập đi lại bằng giày.

Trước đây, ông đều đi chân không, tay nắm thanh sắt, đi qua lại trên máy tập, từ 30 vòng, 50 vòng, 60 vòng, bây giờ thậm chí ông có thể ra khỏi máy tập, mang giày vào và đẩy xe lăn đi bộ, điều này thật đáng kinh ngạc.

Nếu tôi ở tuổi ông, tôi chắc hẳn đã từ bỏ phục hồi chức năng từ lâu, nhưng ông đã kiên trì suốt 15 tháng. Có lẽ, ông sẽ tiếp tục kiên trì.

Học cách đối thoại, là món quà lớn nhất tặng cho chính mình và cha

Qua việc phục hồi chức năng này, tôi thấy được ông kiên trì đến nhường nào: Ông kiên quyết tập luyện hàng ngày, luyện tập đi bộ. Ông cố chấp như thế nào, thì ông cũng kiên trì đến mức ấy. Nếu không như vậy, làm sao ông có thể đối mặt với quá trình phục hồi khó khăn như vậy? Trước đây, tôi chỉ nhìn thấy sự cứng đầu của ông, và ghét nó. Nhưng giờ đây, tôi thấy trân trọng và ngưỡng mộ sự kiên trì của ông.

Cha không thay đổi, chính tôi đã thay đổi, góc nhìn của tôi đã trở nên rộng mở hơn.

Đây là một khoảnh khắc quan trọng trong hành trình hòa giải của tôi và cha, mối quan hệ của chúng tôi trở nên gắn bó hơn, gần nhau hơn.