Năm nay là kỷ niệm 75 năm Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) cướp chính quyền. Trong suốt 75 năm qua, họ đã thực hiện công tác tuyên truyền tư tưởng một cách quy mô, liên tục, toàn diện, bắt buộc và dưới áp lực lớn đối với người dân. Sau khi trải qua “giáo dục tư tưởng” của 3 thế hệ, điều này đã ảnh hưởng như thế nào đến người dân Trung Quốc? Những “con người mạnh mẽ” lớn lên dưới sự “giáo hóa” này có những đặc điểm gì?

Thien An Mon
(Ảnh: Romas_Photo/ Shutterstock)

Nhiều người sẽ nói rằng mỗi quốc gia và mỗi chính phủ đều sẽ tiến hành ‘giáo dục tư tưởng’ cho công dân của mình. Hình thức có thể khác nhau, nhưng bản chất đều là tuyên truyền hệ tư tưởng được chính thức công nhận đến người dân. Do đó, việc ĐCSTQ làm như vậy không có gì sai. Vấn đề là, cách mà họ thực hiện giáo dục tư tưởng là bắt buộc, và nội dung thì có hại, từ đó hình thành nên những ‘con người mạnh mẽ’ mang tính phản văn minh.

Công tác ‘giáo hóa’ người dân của ĐCSTQ được giao cho Bộ Tuyên truyền Trung ương. Bộ này kiểm soát tư tưởng, niềm tin và các lĩnh vực ý thức hệ của toàn quốc, bao gồm giáo dục, xuất bản, truyền thông, văn hóa, phát thanh, điện ảnh và truyền hình. Sự tuyên truyền toàn diện này thực chất chính là ‘tẩy não’.

Chương trình tẩy não của ĐCSTQ bao gồm hai bước: loại bỏ và nhồi nhét. Vậy nó đã loại bỏ cái gì và nhồi nhét cái gì? Nó đã loại bỏ ranh giới đạo đức của xã hội nhân loại, khả năng tư duy của người bình thường và lương tâm của con người; sau đó, nó nhồi nhét triết lý đấu tranh của ĐCSTQ, chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi và bóp méo quan niệm về kẻ thù và bạn bè.

p2711133a520567200 ss
Nhà bình luận thời sự Trình Tường – tác giả của bài viết này. (Ảnh: Vision Times).

A. ĐCSTQ đã loại bỏ điều gì?

1. ĐCSTQ đã xóa bỏ ranh giới đạo đức của xã hội loài người

Mỗi xã hội văn minh, trong quá trình phát triển, đều sẽ dần hình thành một ranh giới đạo đức để quy định hành vi của con người. Ranh giới đạo đức này có tác động tích cực đến sự vận hành bình thường của xã hội nhân loại: nó tạo ra sự ràng buộc đối với hành vi của mỗi cá nhân trong xã hội, từ đó tránh được việc con người, do bản chất động vật, tự nhiên cạnh tranh để sinh tồn, dẫn đến việc sát hại lẫn nhau và tuyệt chủng. Ranh giới này khiến mỗi thành viên trong xã hội tự giác thực hiện sự tự ràng buộc, giúp mối quan hệ giữa người với người không đến mức “đến cùng.” Năng lực tự ràng buộc này xuất phát từ một ranh giới đạo đức được thỏa thuận chung, nếu không có ranh giới đạo đức vô hình này làm nền tảng, thì các luật lệ hữu hình sẽ rất khó có thể hoạt động hiệu quả thực sự. Ví dụ: ranh giới đạo đức của xã hội không chấp nhận việc giết người, do đó mới có luật phạt tội giết người. Vì vậy, ranh giới đạo đức này cũng là nền tảng cho sự tồn tại của mọi luật lệ.

Ranh giới đạo đức của xã hội loài người được hình thành như thế nào? Nó được hình thành từ các yếu tố văn hóa truyền thống như tín ngưỡng tôn giáo, lời nói và hành động của những thánh hiền tuấn kiệt qua các thế hệ.

Tín ngưỡng tôn giáo: Nói chung, tôn giáo khuyến khích niềm tin vào Thần, Phật, và con người tự nguyện tự ràng buộc mình do sự tôn kính đối với Thần linh. Đồng thời, tôn giáo cũng hướng con người đến việc làm điều thiện và cảnh báo về cái ác, trừng phạt kẻ xấu. Mặc dù Trung Quốc không có tôn giáo rõ ràng, nhưng trong tiềm thức của người dân vẫn có sự tôn kính đối với Thần linh. Câu nói “trên đầu ba thước có Thần linh,” “người đang làm Trời đang nhìn” phản ánh sự tôn kính của người dân đối với Thần Phật. Những tín ngưỡng này đã thiết lập một ranh giới đạo đức chung cho xã hội, từ đó quy định hành vi của cá nhân.

Thân giáo và ngôn hành của những thánh hiền tuấn kiệt qua các thời đại: Mỗi xã hội đều có những nhà hiền triết và tài năng được công nhận, và hành động của họ trở thành hình mẫu, được các thành viên trong dân tộc tôn trọng và bắt chước. Qua thời gian tích lũy và lắng đọng, những giá trị này trở thành ranh giới đạo đức của dân tộc đó. Ví dụ, lời dạy của Khổng Tử về ‘khắc kỷ phục lễ’ nhấn mạnh rằng con người phải có khả năng tự kiềm chế, không nên làm mọi việc đến mức tuyệt đối.

Việc hình thành ranh giới đạo đức của một xã hội như đã nêu trước đó, vậy ĐCSTQ đã xóa bỏ ranh giới đạo đức của xã hội Trung Quốc như thế nào?

Đầu tiên, ĐCSTQ tiêu diệt tôn giáo. Thứ nhất, từ góc độ triết học, Đảng khuyến khích chủ nghĩa duy vật và phản đối chủ nghĩa duy tâm; tôn giáo, là một điển hình của chủ nghĩa duy tâm, ngay từ đầu đã không may nằm ở phía đối lập với chính quyền, do đó sẽ bị chính quyền Trung Quốc tiêu diệt và cấm đoán. 

Thứ hai, về lý thuyết, ĐCSTQ định nghĩa tôn giáo là “thuốc phiện của nhân dân” (định nghĩa nổi tiếng của Marx), những người theo tôn giáo được coi là ngu dốt, mê tín cần phải được cải tạo, trong khi những người thúc đẩy hoạt động tôn giáo thường bị coi là mối đe dọa đối với an ninh quốc gia và bị xử lý hình sự, điều này khiến người dân dần dần xa lánh tôn giáo. 

Thứ ba, về chính trị, ĐCSTQ còn tuyên truyền rằng tôn giáo (chủ yếu là Kitô giáo) trong quá khứ từng là công cụ của các thế lực phương Tây xâm lược Trung Quốc, và ngày nay vẫn là phương tiện để phương Tây lật đổ ĐCSTQ, từ đó làm cho tôn giáo trở thành thù địch. Ba yếu tố này đã khiến người dân Trung Quốc xa rời tín ngưỡng tôn giáo, kết quả là họ mất đi sự tôn kính đối với Thần linh, và không còn sợ nhân quả báo ứng.

Ngoài việc xa rời tôn giáo khiến người dân Trung Quốc không thể thiết lập ranh giới đạo đức, chính quyền Trung Quốc còn thông qua việc đánh bại ‘phong, tư, tu’ (封資修) để phủ nhận hoàn toàn nền văn hóa xuất sắc mà nhân loại đã tạo ra trong lịch sử. ‘Phong’ chỉ chung cho nền văn minh cổ đại Trung Quốc, ‘tư’ chỉ nền văn minh hiện đại tiên tiến của phương Tây, còn ‘tu’ (chủ nghĩa xét lại, chống lại chủ nghĩa Mác – Lênin) chỉ những điều tốt đẹp từ Liên Xô cũ. Ba khái niệm ‘phong, tư, tu’ thực sự đại diện cho kho tàng văn hóa chung của nhân loại (bao gồm cả vật chất và phi vật chất) mà lẽ ra nên được bảo vệ, kế thừa và phát huy. Tuy nhiên, trong thời kỳ Cách mạng Văn hóa, chính quyền Trung Quốc chủ trương ‘phá tứ cựu, lập tứ tân’, hoàn toàn phủ nhận ‘phong, tư, tu’, dẫn đến việc phá hủy gần như tất cả những gì được coi là ‘phong, tư, tu’. Điều này không chỉ phá hoại vật chất, mà còn hủy hoại con người và văn hóa, làm cho những lời dạy của các thánh hiền tuấn kiệt trong lịch sử Trung Quốc và thế giới bị phá hủy gần hết. Ranh giới đạo đức của xã hội Trung Quốc vì vậy cũng đã hoàn toàn biến mất.

Sự tuyên truyền của ĐCSTQ không chỉ thúc đẩy sự biến mất của ranh giới đạo đức trong xã hội Trung Quốc, mà thậm chí còn kích động người dân vượt qua ranh giới đó, dẫn đến sự sụp đổ toàn diện về đạo đức trong xã hội. Trong thời kỳ Cách mạng Văn hóa, chính quyền càng tích cực cổ vũ cho khẩu hiệu “Khủng bố Đỏ vạn tuế”, kích động mọi người phát huy những mặt và hành vi tàn bạo, thú tính và tối tăm nhất của con người. Khẩu hiệu này có thể được coi là một trong những khẩu hiệu điển hình nhất trong lịch sử nhân loại vượt qua mọi ranh giới đạo đức. Nó khuyến khích mọi người có thể tùy ý tước đoạt quyền cá nhân, quyền riêng tư, tài sản thậm chí là tính mạng của người khác dưới chiêu bài ‘cách mạng’ mà không phải chịu bất kỳ hình phạt nào. Như vậy, xã hội hoàn toàn rơi vào trạng thái hỗn loạn và mất trật tự.

Do sự suy giảm của ranh giới đạo đức, vấn đề đạo đức trong xã hội Trung Quốc trở nên cực kỳ nghiêm trọng. Cựu Thủ tướng Ôn Gia Bảo vào ngày 17/4/2011 đã thừa nhận trong cuộc hội đàm với các cố vấn của Quốc vụ Viện rằng sự suy thoái đạo đức trong xã hội Trung Quốc đã đến mức độ nghiêm trọng. Ông nói: “Sự thiếu hụt lòng tin và sự suy giảm đạo đức đã đến mức độ nghiêm trọng như vậy. Nếu một quốc gia không nâng cao phẩm chất và sức mạnh đạo đức của công dân, thì quốc gia đó sẽ không bao giờ có thể trở thành một quốc gia hùng mạnh thực sự và được tôn trọng”.

2. Tiêu diệt khả năng tư duy của người bình thường

Trong 75 năm tuyên truyền, ĐCSTQ đã thành công trong việc tiêu diệt khả năng tư duy bình thường của người dân Trung Quốc. Nó đã đạt được điều này thông qua việc độc quyền thông tin và cách giải thích thông tin.

Độc quyền thông tin: Khiến người dân trở nên ngu muội.

Chúng ta biết rằng việc tiếp cận thông tin là điều kiện tiên quyết để người dân thoát khỏi trạng thái ngu muội. Có ‘tri thức’ thì mới có ‘trí tuệ’, có ‘trí tuệ’ thì mới có thể ‘phân biệt’, và có khả năng ‘phân biệt’ thì mới có được khả năng tư duy độc lập. Chỉ những người có khả năng tư duy độc lập mới có thể thúc đẩy sự tiến bộ của xã hội.

Tại Trung Quốc, thông tin bị chính quyền độc quyền một cách toàn diện và tuyệt đối. Kết quả là người dân không thể ‘biết’, và do đó cũng không thể bước vào cấp độ ‘tư duy độc lập’, khiến họ trở thành một tập thể người dân bị ngu hóa.

Nhà triết học người Pháp Montesquieu trong tác phẩm ‘Tinh thần của pháp luật’ có một câu nói như sau: “Mục đích của giáo dục ở bất kỳ quốc gia nào có chế độ chuyên chế đều là cố gắng hạ thấp trí tuệ của công dân”. Đây là sự tóm tắt chính xác nhất cho tuyên truyền ‘ngu dân hóa’ của chính quyền Trung Quốc.

Độc quyền luận thuật: Cực đoan hóa người dân.

Công tác ‘tẩy não’ của ĐCSTQ, ngoài việc độc quyền thông tin và ngu dân hóa, còn độc quyền cả luận thuật. Khái niệm luận thuật ở đây chỉ sự giải thích chính thức của Đảng đối với các sự vật khách quan (ngoại giao, nội chính, chính trị, kinh tế, lịch sử). Những quan điểm mà chính quyền khuyến khích thường được tuyên truyền rộng rãi, nhằm đảm bảo mọi người đều phải tin phục, trong khi các quan điểm trái chiều với chính quyền thì bị cấm phát tán, và người vi phạm sẽ bị trừng phạt nặng nề. Dần dần, người dân sẽ vô tình chấp nhận những luận thuật đơn nhất, phiến diện của chính quyền là chân lý, và khi họ nghe thấy những ý kiến không đồng nhất với những gì họ đã được nhồi nhét từ lâu, họ sẽ tự giác đứng lên bảo vệ những gì chính quyền đã truyền bá cho họ và mạnh mẽ phản đối những ý kiến khác. Những người như vậy là những người đã trở nên cực đoan và thiên lệch.

Đặc điểm thứ hai của tuyên truyền ĐCSTQ là sử dụng “bạo lực” để hỗ trợ cho những lời dối trá. Chỉ dựa vào việc tuyên truyền bằng văn tự và lời nói thì chưa đủ để khiến người dân mất đi khả năng phân biệt đúng sai. Tuyên truyền của ĐCSTQ cần phải có sự hỗ trợ của “bạo lực” để cuối cùng đạt được hiệu quả.

Trong một xã hội bình thường, ý kiến của người dân luôn đa dạng. Sau khi chính quyền Trung Quốc độc quyền thông tin và tư tưởng, vẫn có những người tiếp tục giữ quan điểm của mình. Đối với những người này, chính quyền sẽ không ngần ngại thực hiện những cuộc tấn công tàn bạo. Người bị tấn công có thể nhẹ thì mất cơ hội việc làm, nặng thì bị giam giữ, thậm chí có thể bị tiêu diệt về thể xác. Những biện pháp tàn nhẫn này được sử dụng để hỗ trợ cho cái gọi là tuyên truyền tích cực của Đảng. Vì vậy, tuyên truyền tích cực chỉ có thể có hiệu quả khi được bổ sung bằng các biện pháp chuyên chính. Đối với những người có ý kiến khác, nhiều người không những không đứng lên ủng hộ những người có quan điểm khác, mà còn đồng tình với các cuộc tấn công mà Đảng nhắm vào họ. Đây chính là một biểu hiện nổi bật của việc người dân Trung Quốc đã mất khả năng tư duy bình thường.

Công cụ mà chính quyền Trung Quốc sử dụng để buộc người dân chấp nhận những lời dối trá của mình chính là các “cuộc vận động chính trị”. Theo tác phẩm Nhận thức về các cuộc vận động chính trị sau khi thành lập đất nước của Hồ Phủ Thần (cựu Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Trung Quốc), trong giai đoạn 1949-1976, đã có 52 cuộc vận động chính trị trên toàn quốc được Mao Trạch Đông ký duyệt trực tiếp (trong 26 năm, trung bình mỗi năm có 2 cuộc vận động chính trị), từ đó hình thành một cơ chế hành chính thường xuyên nhằm kiểm soát người dân. Chính cơ chế này, kết hợp với tuyên truyền của Đảng, đã có thể tiêu diệt hoàn toàn lương tri của con người. Cựu thư ký của Mao Trạch Đông, ông Lý Nhuệ, khi viết lời giới thiệu cho cuốn sách này, đã mô tả sức mạnh của “cuộc vận động chính trị” như sau: 

Các cuộc vận động chính trị này, như một vũ khí của chính quyền chuyên chế, thực sự có thể được coi là một phát minh lớn của Mao Trạch Đông, một người cộng sản phương Đông. Số lượng cuộc vận động, mức độ gây hại và những biện pháp tàn bạo thực sự có thể ghi vào Sách Kỷ lục Guinness. Các cuộc vận động chính trị mà Mao Trạch Đông phát động có những đặc điểm chính… giống như trong chiến tranh, có thể thống kê kết quả thắng lợi: cải cách ruộng đất phải tiêu diệt bao nhiêu địa chủ, trấn áp phản cách mạng phải giết bao nhiêu kẻ phản động, Tam Phản phải đánh bao nhiêu ‘hổ lớn’, ‘hổ vừa’, ‘hổ nhỏ’ và trong cuộc Phản Hữu thì phải phân loại bao nhiêu người thành phe cánh hữu… và nhiều thứ khác nữa. Khi cuộc vận động bắt đầu, Mao Trạch Đông thường đặt ra tỷ lệ phần trăm cụ thể và yêu cầu lập kế hoạch, và vào giai đoạn sau của cuộc vận động, sẽ có việc kiểm tra, đối chiếu. Tại sao người ta bị ép phải nói dối, tại sao có nhiều người bị đói chết, tại sao cây cối trên các ngọn núi bị thiêu trụi, tại sao Hồng vệ binh có thể lục soát nhà dân khắp nơi, tại sao học sinh có thể đánh chết giáo viên… tất cả đều là sức mạnh của các cuộc vận động chính trị.

Chính những cuộc vận động chính trị liên miên này đã khiến lương tri của nhiều người bị tiêu diệt, đồng thời làm sụp đổ ý chí của nhiều trí thức, khiến họ không dám nói lên sự thật và không dám phân biệt đúng sai nữa.

Mất đi ranh giới đạo đức, không còn lý trí (do mất khả năng tư duy độc lập), và tiêu diệt lương tri (do đó mất khả năng phân biệt đúng sai), đây chính là 3 hậu quả nghiêm trọng của công tác tuyên truyền (chương trình tẩy não) của ĐCSTQ trong suốt 75 năm qua. Những biểu hiện của ‘người mạnh mẽ’ ngày nay, như sự ngu dốt, cực đoan và mất lương tri, chính là những hệ quả phát sinh từ các chính sách tuyên truyền này.

B. ĐCSTQ đã nhồi nhét những gì?

1. Khuyến khích ‘đấu tranh giai cấp’ và ‘cách mạng bạo lực’

Do tổ tiên của ĐCSTQ, bao gồm Marx, Lenin và Stalin đều khuyến khích “đấu tranh giai cấp”“cách mạng bạo lực”, nên những quan điểm này đã trở thành kim chỉ nam mà người dân Trung Quốc tôn thờ. Trong thời kỳ cách mạng văn hóa, mặc dù có khẩu hiệu “Khủng bố Đỏ máu vạn tuế”, nhưng sau khi gia nhập Liên Hợp Quốc, chính quyền Trung Quốc còn đưa ra những lý luận sai lầm như phân biệt “chủ nghĩa khủng bố cách mạng”“chủ nghĩa khủng bố phản cách mạng”. Ngày nay, tất cả các quốc gia có quan hệ mật thiết với chính quyền Trung Quốc đều bị cộng đồng quốc tế coi là Trục Tà Ác. Sau 75 năm nhồi nhét, khiến người dân đã tôn sùng bạo lực. Nhà văn trẻ Trung Quốc Hàn Hàn đã nói:

“Tôi bị lạc trong môi trường sống của mình, mấy chục năm đầu dạy người ta tàn bạo và đấu tranh, mấy chục năm sau khiến người ta tham lam và ích kỷ, vì vậy trong xương tủy của nhiều người trong chúng ta đã được cắm những hạt giống này”.

Do ĐCSTQ khuyến khích cách mạng bạo lực và coi những giá trị phổ quát (như tự do, dân chủ, pháp trị, nhân quyền, v.v.) hình thành từ thời kỳ Phục hưng đến nay là trở ngại lớn nhất cho chế độ độc tài của mình, nên họ đã tìm mọi cách để ngăn chặn. Sau khi ông Tập Cận Bình lên nắm quyền, ông phát đi lệnh cấm “7 điều không được nói”, một trong đó chính là các giá trị phổ quát. Điều này khiến xã hội Trung Quốc ngày càng xa rời nền văn minh hiện đại.

2. Chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi và chủ nghĩa yêu nước mù quáng

Để củng cố quyền lực và tăng cường tính hợp pháp trong việc cầm quyền, ĐCSTQ không ngần ngại tuyên truyền mạnh mẽ chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi và chủ nghĩa yêu nước mù quáng, nhằm thu hút sự ủng hộ vô hình và tâm lý từ những nhóm người hẹp hòi và mù quáng. Trong thời kỳ chiến tranh thương mại Trung – Mỹ, cơ quan truyền thông nhà nước Trung Quốc là Tân Hoa Xã đã đăng một bài báo có tiêu đề “Sự thức tỉnh ý thức dân tộc – phong trào yêu nước của Nghĩa Hòa Đoàn”, công khai ca ngợi tinh thần của Nghĩa Hòa Đoàn, với mục đích kích thích chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi và yêu nước mù quáng để hỗ trợ chính quyền chống lại Mỹ. Việc lâu dài tuyên truyền chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi và yêu nước mù quáng nhằm ủng hộ chính quyền, chắc chắn sẽ khiến một bộ phận người dân Trung Quốc bị ảnh hưởng có xu hướng bạo lực, sẵn sàng sử dụng ngôn từ hoặc thậm chí bạo lực thể xác đối với những người có ý kiến khác. Sự việc lãnh sự quán Trung Quốc tại Manchester, Anh kéo người biểu tình vào trong Lãnh sự quán và đánh đập họ, cùng với vụ việc bạo loạn ở Thâm Quyến, nơi kẻ bạo lực đâm học sinh Nhật Bản, chính là hình ảnh phản ánh của yêu nước mù quáng.

Bóp méo quan niệm về bạn – thù của dân tộc Trung Hoa.

Để phục vụ lợi ích riêng, ĐCSTQ không ngần ngại bóp méo toàn bộ quan niệm về kẻ thù và bạn bè của dân tộc Trung Hoa, dẫn đến những sai lầm về định hướng. Nhìn từ bối cảnh lịch sử gần 100 năm qua, kẻ thù của dân tộc Trung Hoa là Nga ở phía Bắc chứ không phải Mỹ; điều này chỉ cần nhìn vào việc hai nước có từng xâm lấn lãnh thổ của Trung Quốc hay không là đủ để minh chứng. Ngay từ năm 1845, Lâm Tắc Từ đã nhận ra: “Cuối cùng mối họa cho Trung Quốc chính là nước Nga! Ta đã già rồi! Các ngươi nên thấy điều này!” Sự phát triển lịch sử sau khi ông qua đời đã chứng minh ông có quan niệm đúng đắn về kẻ thù và bạn bè.

(Lâm Tắc Từ (1785 – 1850), là vị quan nổi tiếng thời Thanh, ông có chủ trương thi hành kiên quyết và triệt để lệnh cấm hút thuốc phiện, và đã tiêu hủy hơn 20.000 hòm thuốc phiện của các lái buôn thuốc phiện người Anh tại Quảng Đông.)

Nhưng do ĐCSTQ được sinh ra và nuôi dưỡng bởi ĐCS Liên Xô, nên ngoại trừ một khoảng thời gian ngắn trong thập niên 60 có sự chống đối Liên Xô, thì về cơ bản, chính sách đối ngoại của chính quyền Trung Quốc chủ yếu là chống Mỹ. Sự tuyên truyền này đã khiến người dân thường xuyên coi Mỹ là kẻ thù số một của Trung Quốc, trong khi lại sẵn lòng ủng hộ Nga trong cuộc xâm lược Ukraine. Quan niệm về kẻ thù và bạn bè bị bóp méo này không chỉ không phù hợp với sự thật lịch sử mà còn gây hại đến lợi ích quốc gia của Trung Quốc.

‘Thân Mỹ, xa Nga’ là một yếu tố quan trọng giúp Trung Quốc phát triển nhanh chóng từ năm 1978. Theo lời của Lý Thận Chi, Giám đốc Học viện Khoa học Xã hội Trung Quốc, khi Đặng Tiểu Bình thăm Mỹ vào năm 1979, ông đã đi cùng với tư cách là phiên dịch viên. Ông đã từng hỏi Đặng Tiểu Bình tại sao lại coi trọng quan hệ với Mỹ như vậy, và Đặng Tiểu Bình đã trả lời một cách đơn giản: “Các quốc gia đi theo Mỹ đều trở nên giàu mạnh”.

Ông Lý Thận Chi, trong một bài phát biểu có tiêu đề “Nói về ngoại giao của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa” được trình bày tại Nam Kinh vào năm 2002, đã hồi tưởng lại sự việc này và nói: “Ông Đặng Tiểu Bình coi trọng Mỹ như vậy vì ông ấy cho rằng để thực hiện chính sách cải cách và mở cửa, trước tiên phải mở cửa với Mỹ. Nếu không mở cửa với Mỹ, thì việc mở cửa với bất kỳ quốc gia nào khác cũng đều vô nghĩa (đây là điều mà Phó Bộ trưởng Bộ Ngoại giao phụ trách các vấn đề Châu Mỹ – Chương Văn Tấn – đã nói với tôi). Có thể nói, trong vấn đề này, ông Đặng Tiểu Bình không chỉ có tầm nhìn chính xác mà còn có quyết tâm lớn. Ngay sau khi trở về nước, ông đã phát động cuộc chiến tự vệ phản kích chống lại Việt Nam trong 2 tuần, nhằm trừng phạt Việt Nam đã vô ơn với Trung Quốc. Đây cũng là một bước quan trọng để thể hiện sự thống nhất lợi ích với Mỹ bằng cách đánh vào đồng minh của Liên Xô”. (Xem tạp chí Chiến lược và Quản lý, tháng 4 năm 2002, số 53).

Như vậy, có thể thấy rằng Đặng Tiểu Bình hoàn toàn nhận ra rằng việc thân thiện với Mỹ phù hợp với lợi ích quốc gia của Trung Quốc. Thật tiếc, từ khi Tập Cận Bình lên nắm quyền, vì về tư tưởng, tuyên truyền của ĐCSTQ đã củng cố mạnh mẽ quan điểm Mỹ là kẻ thù của Trung Quốc, từ đó bóp méo quan niệm về bạn – thù của dân tộc Trung Hoa, đã đưa Trung Quốc vào tình thế đối đầu với Mỹ. Quan niệm sai lầm về bạn – thù này chắc chắn sẽ không có lợi cho sự phát triển lâu dài của Trung Quốc.

ĐCSTQ nắm quyền trong suốt 75 năm, cũng là 75 năm người dân Trung Quốc bị tẩy não. Sau khi trải qua quá trình tẩy não cưỡng bức mà cá nhân không có lựa chọn và không thể tránh khỏi, nhiều người Trung Quốc đã vô tình bị nhào nặn thành một tập thể tầm thường, ngu dốt, mù quáng, chống Mỹ và chống phương Tây. Tất nhiên, không phải tất cả người Trung Quốc đều như vậy, nhưng do quy mô dân số lớn, chỉ cần 1/10 trong số họ là tầm thường, ngu dốt và mù quáng, thì điều này đã đủ để gây ra mối đe dọa lớn đối với cộng đồng quốc tế.

Trình Tường
(Bài viết thể hiện quan điểm riêng của cá nhân tác giả, được đăng trên Vision Times.)