Hà Duy Phiên: Một trọng thần trụ cột của nhà Nguyễn
- Trần Hưng
- •
Sử liệu cho thấy nhà Nguyễn đánh giá rất cao Hà Duy Phiên. Dù chỉ đỗ trung khoa nhưng nhờ tài năng mà ông trở thành trụ cột trong Triều, đời Vua nào cũng rất xem trọng.
Xã Hoằng Lộc nằm trong khu vực làng cổ xứ Thanh Hóa, nổi tiếng với đình Bảng Môn, không chỉ thờ Thành Hoàng, mà còn thờ 12 Tiến sĩ cùng hàng trăm hương cống, tú tài. Làng Bột Thượng thuộc xã Hoằng Lộc lại là nơi lắm người tài. Bia đá tại Văn chỉ của làng ghi: “Hình thế thì có núi Phong Châu làm án, có dòng sông Mã uốn quanh, non sông đúc kết khí thiêng, sinh trưởng nhân tài anh tuấn… kẻ sĩ nhiều người đỗ đạt, danh tiếng lẫy lừng đứng hàng đầu châu Ái và sánh chung cả nước”.
Thời Lê Trung Hưng làng Bột Thượng có vợ chồng cử nhân Hà Nguyễn Huân sinh được người con trai là Hà Duy Phiên.
Năm 1819 thời vua Gia Long, Duy Phiên thi đỗ Hương cống tức cử nhân. Đỗ Hương cống không phải là đại khoa, tuy nhiên qua gần 10 năm được cử làm quan ở các trấn, Hà Duy Phiên đã thể hiện được tài năng và phẩm cách của mình.
Chính vì thế mà năm 1828 ông được điều về Kinh thành giữ các chức vụ vốn chỉ dành cho những người đỗ đại khoa như Lang trung Hình bộ, sau thăng Hữu thị lang Hình bộ (năm 1830), Tả phó Đô ngự sử (năm 1833).
Năm 1833 xảy ra việc nổi loạn của Lê Duy Lương. Lê Duy Lương tự xưng là Minh chúa, cùng anh em nhà Quách Tất Công nổi loạn ở Ninh Bình. Sách “Quốc triều sử toát yếu” có ghi chép lại rằng:
“Tháng 3 năm Quý Tỵ (1833), giặc trốn ở Ninh Bình là Lê Duy Lương cùng thổ ty xã Sơn Âm là anh em Quách Tất Công hiệp đảng khởi ngụy. Lương làm Minh chúa, tự xưng Đại Lê huyền tôn, tạo ấn ngụy, phong chức ngụy; đem dân thổ ba huyện là Lạc Thổ, Phụng Hóa, An Hóa làm quân, cùng những tù phạm trốn và dân đói ở các hạt gần đó theo nhiễu, quân nó đến vài ngàn; quan quân thường bị hại”.
Việc tâu lên, vua Minh Mạng cho quân đến chiếm lại các nơi, quân nổi loạn phải rút về giữ các căn cứ ở Xích Thổ và Sơn Âm.
Tháng 4 âm lịch năm 1833, vua Minh Mạng cử Phó đô ngự sử Hà Duy Phiên đưa quân đến đánh đại bản doanh quân nổi dậy ở Sơn Âm. Duy Phiên đưa quân tấn công, đến tháng 6 âm lịch thì bắt được Lê Văn Lương cùng các đầu lĩnh khác.
Tuy nhiên anh em nhà Quách Tất Công chạy thoát được, suy tôn một người họ Lê khác là Lê Duy Hiển làm minh chủ. Quân nổi dậy lớn mạnh tấn công vào Thanh Hóa, Nghệ An, Ninh Bình. Năm 1837, Vua Minh Mạng phong Hà Duy Phiên làm phó tướng, cùng tướng Tạ Quang Cự đến đánh.
Quân nổi dậy liên tục bị đánh dẹp, đến năm 1838 thì quân triều đình bắt được Lê Duy Hiển cùng các chỉ huy khác, dẹp yên được cuộc nổi loạn.
Hà Duy Phiên lập được công lớn dẹp yên cuộc nổi loạn, được Vua ban thưởng bài ngọc trắng có chữ “cát tường” và gia thăng Quận công, thăng chức Thượng thư bộ Công.
Năm 1841 dười thời vua Thiệu Trị, ông được bổ nhiệm làm Cơ mật viện đại thần. Đến năm 1852 ông được vua Tự Đức khen là “bề tôi tài giỏi, có khí tiết”, được gia hàm Thái tử thiếu bảo.
Hà Duy Phiên cũng tham gia biên soạn hai cuốn sách có giá trị lớn về văn hóa lịch sử là “Đại Nam hội điển sự lệ” và “Đại Nam thực lục tiền biên”.
Hà Duy Phiên được xem là một trong những vị quan trụ cột của Triều đình nhà Nguyễn, cha mẹ ông cũng nhờ vậy mà được thơm lây.
Năm 1838, ông được vua Minh Mạng gia thăng Quận công thì cha ông được phong là Gia Nghị Đại phu Thiêm sự phủ Thiêm sự, ban tên thụy Hiến Mục và ban cho cáo mệnh. Mẹ ông cũng được tặng cho hai chữ “Thục nhân”, ban cho cáo mệnh.
Năm 1849 vua Tự Đức phong cho cha ông là Trung phụng Đại phu Đô sát viện hữu Phó đô Ngự sử, tên thụy là Trang Khải và ban cho cáo mệnh. Và đặc biệt tặng mẹ ông Tòng Nhị phẩm Phu nhân, ban cho cáo mệnh.
Năm 1852, Hà Duy Phiên mất, vua Tự Đức thương tiếc, tiếp tục ban Chế truy tặng cho ông. Bản chế của vua Tự Đức như sau:
“Vâng mệnh trời mở vận nước, Hoàng đế xuống chế:
Trẫm nghĩ: Lòng trung giúp rập của bề tôi, trước sau chớ đổi; ân điển đối đãi của vua chúa, còn mất chẳng chia.
Nên đoái xét: Thái tử Thiếu bảo Hiệp biện Đại học sĩ, lĩnh Thượng thư bộ Hộ sung Cơ mật viện Đại thần, tặng hàm Thiếu bảo [vốn tên] Hà Duy Phiên. Chí hơn đời, anh tài hữu dụng cho quốc gia. Từng giữ nhiều chức vụ trọng yếu từ triều đến quận, nức tiếng quản lí lão luyện; hằng phò tá những kế hoạch lớn từ Bắc vào Nam, mọi việc đều không trễ nải.
Ngươi dẫn dắt quan lại địa phương cấp dưới, dìu đỡ để họ làm nên; trợ giúp những cơ quan quan trọng ở triều đình, nêu mưu lớn đúng khi ban bố. Phép tắc lễ độ đúng với câu lo trước vui sau, dấu ấn hành trạng vừa với điều chức cao lòng kính.
Phụng sự trải suốt ba triều, luôn nêu cao một nhân cách lớn. 30 năm dồn sức vóc, nào biết tấm lòng của kẻ đầu bạc; 12 tháng dãi gió sương, bỗng chạm cảm tình của người gảy tiếng tơ. Công cũ còn nhiều, từng ban thêm ơn phúng tế; hành trạng phô dày, nên cấp nhiều ân điển tuyên dương.
Nay truy tặng ngươi là: Đặc tiến Vinh Lộc Đại phu, Văn minh điện Đại học sĩ, ban tên thụy là: Văn Thận và ban tặng cho cáo mệnh”.
Bản Chế này đến nay vẫn còn, được viết trên vải lụa mềm bóng, màu vàng nhạt, đây là loại vật liệu quý hiếm, rất ít thấy trong tất cả các sắc phong, xung quanh có thêu hoa văn hình rồng, cho thấy Triều đình nhà Nguyễn rất xem trọng công lao của ông.
Trần Hưng
Xem thêm:
- Đặng Trần Diễm: Tấm gương “giáo tử đăng khoa” thời nhà Lê
- Trần Ích Phát: Người thầy của 3 Trạng nguyên, 74 tiến sĩ
Mời xem video:
Từ khóa nhà Nguyễn