Vì sao Trung Quốc nên từ bỏ Đường 9 Đoạn?
Tác giả: Trương Quang Nhuệ (Trung Quốc) | Lược dịch: Nguyễn Hải Hoành
Lời giới thiệu của người dịch: Đường 9 Đoạn (Nine-dotted line), tức Đường Chữ U (U-shape line) hoặc Đường Lưỡi Bò là đường ranh giới biển do Trung Quốc đưa ra nhằm chiếm 80% diện tích Biển Đông, điểm cực Nam đến vĩ độ 4. Tham vọng ấy quá lớn, quá vô lý và trắng trợn nên đã bị dư luận Đông Nam Á và toàn thế giới phản đối. Đường này có chỗ lấn vào vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý của một số nước Đông Nam Á, khiến cho không còn tồn tại vùng biển quốc tế trên Biển Đông nữa, do đó cản trở các tuyến hàng hải quốc tế. TQ rất lúng túng vì không đưa ra được bằng chứng lịch sử và tính pháp lý của Đường 9 Đoạn. Trong khi chính quyền Việt Nam từ thế kỷ 17 đã đưa người ra kiểm soát quần đảo Trường Sa thì TQ mãi đến năm 1946 mới có người ghé qua đây cắm cờ nhận chủ quyền rồi về.
Bản đồ TQ công bố trước 1947 đều vẽ đảo Hải Nam là lãnh thổ cực Nam của họ. Vả lại ai cũng biết bản thân một đường nét đứt chia làm 9 đoạn rời nhau thì không thể coi là đường biên giới quốc gia. Hơn nữa, các đảo bên trong đường ấy ở rất xa TQ và rất gần các nước Đông Nam Á khác; vì thế xét về luật quốc tế, Đường 9 Đoạn hoàn toàn không có cơ sở pháp lý. Việc hạm đội chính phủ Trung Hoa Dân Quốc năm 1946 tiếp quản quần đảo Trường Sa từ tay Nhật rồi đặt tên cho 4 hòn đảo và vẽ vào bản đồ phát hành nội bộ Trung Quốc sao có thể coi là bằng chứng TQ có chủ quyền ở đấy? Năm 1946 quân đội chính phủ này chẳng đã đến tiếp quản Việt Nam (nửa trên vĩ tuyến 16) từ tay Nhật đó sao? Thế nhưng TQ đâu có chủ quyền ở đây? …
Các sự thực ấy chính quyền TQ đều biết, nhưng họ giấu kín không cho dân biết, chỉ một mực nói bừa là toàn bộ các đảo bên trong Đường 9 Đoạn là thuộc chủ quyền không thể tranh cãi của TQ. Dưới sự tuyên truyền dối trá như vậy, đa số dân TQ đều cho rằng nước này nên dùng quân sự “giải phóng” các đảo đang bị nước khác kiểm soát. Rất may là một số trí thức TQ tỉnh táo và dũng cảm đã dùng hình thức Blog mạng để vạch ra sự thật về Đường 9 Đoạn. Bài dưới đây của Blogger Trương Quang Nhuệ, một tác giả thường gây tranh cãi ở TQ. Bài rất dài, chúng tôi chỉ giới thiệu phần đầu. Trong 2 phần sau, tác giả kiến nghị TQ và các nước liên quan thành lập Khối Cộng đồng Biển Đông (South China Sea Commonwealth) để cùng khai thác Biển Đông theo kiểu một công ty đa quốc gia mà TQ chiếm 50% cổ phần.
Gần đây một trang mạng quân sự nổi tiếng trong nước có kêu gọi viết bài về đề tài “Trung Quốc nên thoát ra khỏi tình trạng khó khăn về chủ quyền biển đảo như thế nào”. Bản thân đề tài này thật là có ý nghĩa. Nhưng các bài viết hưởng ứng lời kêu gọi này đã đăng thì hoặc là sặc giọng căm phẫn, hoặc là đầy những ý tưởng ngớ ngẩn. Tôi có cảm giác: Đầu óc đồng bào ta không hề tỉnh táo hơn [những người Trung Quốc hồi cuối thế kỷ 19 từng khuất phục trước tàu chiến súng lớn của phương Tây].
Cách đây ít lâu tôi từng nói: “Trong thế giới cạnh tranh, thực lực là điều quan trọng” … Nhưng không thể đơn giản hiểu thực lực là nước mình có bao nhiêu máy bay tàu chiến, có GDP bằng bao nhiêu, có bao nhiêu dân… Khi bàn chuyện lớn của đất nước, cần phải biết mình biết người thì mới bách chiến bách thắng, chuyện ấy chẳng nói cũng hiểu. Thế nhưng chúng ta có biết mình không? Có biết người không?
Trong quá khứ có bao nhiêu chuyện chứng tỏ chúng ta chẳng biết mình biết người. Năm 1976, Trung Quốc từ chối nhận viện trợ của các nước khác giúp khắc phục thiệt hại trong trận động đất lớn Đường Sơn, khi ấy chúng ta cho rằng làm như thế là vẻ vang. Chúng ta không biết gì về cái thế giới đã gần như hoàn toàn vận hành theo quy tắc của phương Tây, không biết rằng khẩu hiệu “Một nước Trung Quốc” chính là nguyên tắc chính trị do người Mỹ đưa ra. Lẽ tự nhiên chúng ta lại càng không biết những chuyện xa xưa xung quanh vấn đề tranh cãi chủ quyền quần đảo Nam Sa [Việt Nam gọi là Trường Sa], không biết rằng đằng sau sự ra đời cái “Đường 9 đoạn” kia có bao nhiêu trục trặc, không biết rằng hiện nay trên vấn đề Nam Hải [Việt Nam gọi là Biển Đông] nước ta đã cực kỳ bị động!
“Đường 9 đoạn” do một đại tá quân đội Quốc Dân Đảng vẽ ra
Nếu bạn vẫn còn có chút xa lạ với từ ngữ Đường 9 đoạn thì chắc hẳn bạn đã quen với tấm bản đồ Nam Hải chứ! Đây là thể hiện cụ thể của ý nghĩ [Trung Quốc] “có chủ quyền không thể tranh cãi về các đảo ở Nam Hải” cho tới nay vẫn còn nhiều người kiên trì.
Thế nhưng nguồn gốc của Đường 9 đoạn lại bị giấu kín như bưng, ngày nay có mấy người Trung Quốc biết rằng thực ra nó đâu phải do chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa hoạch định, mà là do chính phủ Dân Quốc [của Quốc Dân Đảng] năm xưa vạch ra. Hơn nữa Đường 9 đoạn cũng không phải là do Bộ Ngoại giao của chính phủ ấy chủ trì hoạch định, mà là lấy danh nghĩa Bộ Nội chính phát hành tấm bản đồ này. Người vạch ra Đường 9 đoạn là một sĩ quan hải quân có thân phận đặc biệt, nguyên sĩ quan hải quân trong sứ quán Trung Hoa Dân Quốc tại Mỹ, năm 1946 làm sĩ quan chỉ huy Hạm đội Tiền tiến đi Nam Hải công cán.
Tháng 10 năm 1946, hải quân chính phủ Dân Quốc thành lập tại Thượng Hải Hạm đội Tiền tiến với nhiệm vụ xuống Nam Hải tiếp quản các đảo bị Nhật chiếm. Tối 29/10, dưới sự chỉ huy của đại tá Lâm Tôn,[1] một đoàn 4 tàu chiến nhổ neo ra khỏi cửa Ngô Tùng, Thượng Hải. Đoàn gồm 4 chiến hạm: tàu khu trục hộ tống Thái Bình, tàu săn tàu ngầm Vĩnh Hưng, tàu đổ bộ xe tăng Trung Kiện và tàu Trung Nghiệp.[2] Ngày 9/11 đoàn tàu đến cảng Du Lâm thuộc đảo Hải Nam. Sau đó, Lâm Tôn chỉ huy hai tàu Thái Bình và Trung Nghiệp tiến về phía đảo Nam Sa. Phó chỉ huy Diêu Nhữ Ngọc dẫn hai tàu Vĩnh Hưng, Trung Kiện tiến về đảo Tây Sa [Việt Nam gọi là Hoàng Sa]. Tên các hòn đảo Vĩnh Hưng, Trung Kiện, Thái Bình và Trung Nghiệp[3] ngày nay có vẽ trên bản đồ Nam Hải chính là tên 4 chiếc tàu năm xưa tham gia Hạm đội Tiền tiến.
Có điều đáng nhắc lại là tàu Thái Bình vốn là chiến hạm chủ lực của hải quân Tưởng Giới Thạch, về sau đến năm 1954 bị tàu cao tốc phóng lôi của Quân Giải phóng Trung Quốc đánh chìm ở vùng biển gần tỉnh Triết Giang. Nhưng hòn đảo mang tên nó — tức đảo Thái Bình — cho tới nay vẫn do chính quyền Đài Loan kiểm soát.
Năm 1947, dựa váo các tài liệu do Hạm đội Tiền tiến trình báo, Bộ Nội chính chính phủ Dân Quốc công bố Bảng đối chiếu tên cũ-mới của các đảo ở Nam Hải. Cùng năm đó xuất bản Bản đồ sơ lược vị trí các đảo ở Nam Hải, ghi rõ vùng biển Nam Hải gồm các quần đảo Đông Sa, Tây Sa, Nam Sa, Trung Sa[4] đều thuộc lãnh thổ Dân quốc Trung Hoa và vẽ đường biên giới quốc gia có 11 nét đứt rời xung quanh các đảo ở Nam Hải, cũng tức là Đường 11 đoạn. Năm 1948 lại xuất bản Bản đồ Khu vực hành chính Trung Hoa Dân quốc kèm theo Bản đồ vị trí các đảo Nam Hải do Phó Giác Kim phụ trách Vụ Phương vực Bộ Nội chính chủ biên, trở thành bản đồ chính thức sớm nhất công khai vẽ Đường 11 đoạn.
Ngày 21/4/1949, Quân Giải phóng Trung Quốc vượt Trường Giang tiến xuống phía Nam đến tận Nam Kinh, thủ đô chính phủ Dân Quốc. Cho dù chính phủ Dân Quốc của Tưởng Giới Thạch tan rã nhưng Đường 11 đoạn không vì thế mà biến mất. Ở đây có một nguyên nhân là trước đó không lâu. Lâm Tôn, người vạch đường biên ở Nam Hải, đã khởi nghĩa chống lại Tưởng Giới Thạch, gia nhập hàng ngũ Quân Giải phóng. Sau đó Lâm Tôn liên tiếp được cử làm Phó Tư lệnh Hải quân Hoa Đông rồi Phó Tư lệnh Hải quân của Quân Giải phóng Trung Quốc. Đường 11 đoạn năm nào ra đời cùng với Lâm Tôn và các tài liệu do ông cung cấp đã lọt vào tầm mắt của giới lãnh đạo Trung Quốc. Vì thế trong các bản đồ do Tân Trung Quốc xuất bản đã nhanh chóng xuất hiện Đường 9 đoạn được sửa chữa một chút từ Đường 11 đoạn.[5]
“Đường 9 đoạn” chưa bao giờ là đường biên giới quốc gia!
Đọc tới đây có lẽ rất nhiều người sẽ nói như vậy chẳng phải mọi việc đã rất rõ ràng rồi hay sao: Đường 9 đoạn là thể hiện cụ thể không thể tranh cãi về chủ quyền của Trung Quốc ở Nam Sa, chỉ cần kiên quyết bảo vệ Đường 9 đoạn là được!
Thế nhưng tình hình thực tế là: cho dù trên pháp lý hoặc trong các ghi chép lịch sử, Đường 9 đoạn không thể nào, và xưa nay cũng chưa từng xuất hiện với tư cách là đường biên giới quốc gia!
Trước hết, đường biên giới quốc gia tất phải là đường nét liền, đây là một chuẩn tắc cơ bản thông dụng trên toàn thế giới. Thế nhưng Đường 9 đoạn đã chia thành 9 đoạn thì lẽ tự nhiên là một đường đứt rời. Điều đó về cơ bản đã loại trừ khả năng Đường 9 đoạn trở thành đường biên giới quốc gia. Nói cách khác, Đường 9 đoạn cùng lắm chỉ có thể dùng làm một “đường chủ trương”, thể hiện chính phủ Trung Quốc chủ trương hoạch định vùng biển và các đảo ở trong đường đó vào lãnh thổ Trung Quốc. Đường 9 đoạn xưa nay chưa bao giờ, và cũng không thể là một tuyến cương giới thực tế đã được hoạch định. Bởi vậy không thể vì sự tồn tại Đường 9 đoạn mà nói các đảo và vùng biển bên trong đường đó là lãnh thổ của Trung Quốc; lại càng không thể yêu cầu các quốc gia khác tôn trọng “đường biên giới quốc gia” căn bản không tồn tại này.
Đồng thời, giải thích Đường 9 đoạn là “đường biên giới quốc gia” là đi ngược lại Công ước về Luật biển của Liên Hợp Quốc, hoàn toàn không ăn nhập với Công ước đó. Trong thực tiễn thi hành Luật biển quốc tế bao năm qua, có một lý luận và nguyên tắc cơ bản nhất là “Đất thống trị biển”, cũng tức là nói chủ trương lãnh thổ đối với biển của quốc gia ven biển ắt phải dựa trên cơ sở chủ quyền lục địa, và lấy đường cơ sở lãnh hải làm đường khởi đầu từ đó hướng ra ngoài để hoạch định lãnh hải của mình. Công ước Lãnh hải và vùng tiếp giáp năm 1958 và Công ước về Luật biển của Liên Hợp Quốc năm 1982 — hai Công ước này quy định rõ các chuẩn tắc cơ bản “Lấy chủ quyền đất liền để quyết định chủ quyền biển” và “Lãnh hải mở rộng 12 hải lý”.
Bởi vậy, cho dù bản thân các đảo ở Nam Hải không tồn tại bất cứ tranh chấp nào thì “lãnh thổ trên biển” do nó sinh ra cũng nhiều nhất chỉ có thể là một vòng tròn bán kính 12 hải lý xung quanh đảo, chứ tuyệt đối không thể bao gồm toàn bộ vùng biển Nam Hải như Đường 9 đoạn.
Huống chi hiện nay sự tranh cãi về chủ quyền các đảo ở Nam Hải vốn đang ầm ỹ rồi, hơn nữa liệu các bãi đá lúc chìm lúc nổi khi thủy triều lên xuống và các đảo san hô khó có thể duy trì đời sống và sản xuất lâu dài cho dân cư ấy có thể dùng làm cơ sở cho chủ trương “lãnh thổ trên biển” được hay không? — điều này khi áp dụng luật biển quốc tế thì cũng đáng ngờ vực!
Trung Quốc là nước ký Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển, vì vậy bản thân việc kiên trì Đường 9 đoạn đã tự mâu thuẫn về pháp lý. Hơn nữa, nhiều năm nay ngoài chuyện thỉnh thoảng lại tuyên bố “Trung Quốc có chủ quyền không thể tranh cãi về đảo …” ra, các thế hệ chính phủ Trung Quốc đều chưa hề dùng hành vi được luật biển quốc tế tán thành để thực sự hành xử quyền lãnh hải, quyền lãnh thổ và quyền quản trị hành chính đối với quần đảo Nam Sa nằm ở vùng trung tâm Nam Hải.
Biên đội Lâm Tôn sau chuyến đi biển ấy trở về chỉ bố trí có tính chất tượng trưng một số binh sĩ ở lại trên đảo Thái Bình chứ chưa hề tiến hành bất cứ sự quản trị hữu hiệu nào đối với các đảo thuộc quần đảo Nam Sa. Cho nên ngày nay sau mấy chục năm kể từ chuyến đi ấy, chưa cần nói về rất nhiều hòn đảo, mà ngay cả đảo Trung Nghiệp đặt theo tên một trong số 4 chiếc tàu chiến thuộc hạm đội của Lâm Tôn, và đảo Nam Uy [tiếng Anh: Spratly Island, Việt Nam gọi là đảo Trường Sa Lớn] nằm ở đầu mối tuyến đường biển cũng lần lượt rơi vào tay Phillippines và Việt Nam.
Bởi vậy Đường 9 đoạn xét về pháp lý thì không chịu nổi một đòn [phản biện]; trong thực tế thì như thằng bù nhìn, đã mấy chục năm tự mình mâu thuẫn nói một đằng làm một nẻo. Nói thẳng ra, Đường 9 đoạn đã trở thành một trò cười trong thực tế vận hành Luật biển quốc tế.
Cơ hội lịch sử để vuột mất sau chuyến đi biển của Lâm Tôn
Vấn đề Đường 9 đoạn thực ra không chỉ đơn giản là nói một đằng làm một nẻo, mà vấn đề lớn hơn lại ở chỗ xét theo ba nguyên tắc lớn “Lịch sử”, “Thềm đại lục” “Chiếm trước” của Luật biển quốc tế, thì trên vấn đề quần đảo Nam Sa thuộc về ai, rõ ràng Trung Quốc hoàn toàn không chiếm được thế thượng phong, thậm chí có thể nói là [Trung Quốc đang] cận kề mức cãi chày cãi cối. Đây mới là nguyên nhân cơ bản nhất [làm cho Trung Quốc] bị động tới cùng cực trên vấn đề Nam Hải hiện nay.
“Trung Quốc từ xưa tới nay đã có chủ quyền không thể tranh cãi đối với các đảo ở Nam Hải” câu nói này [người ta] đã nghe không biết bao nhiêu lần rồi. Nhưng cân nhắc kỹ lưỡng một chút thì vấn đề sẽ hiện ra: kể từ ngày khai quốc nền văn minh Trung Hoa cho đến năm 1840 khi đại bác của người Anh phá vỡ cánh cổng lớn của đế quốc Đại Thanh thì Trung Quốc cũng vậy, Triều Tiên cũng vậy, Đông Nam Á cũng vậy, toàn bộ phương Đông hoàn toàn chẳng có khái niệm chủ quyền gì cả. Tra cứu hết lịch sử trên dưới 5000 năm của Trung Quốc, e rằng cũng khó mà tìm thấy trong văn thư nào có hai chữ chủ quyền. Chủ quyền là khái niệm hoàn toàn do người phương Tây sáng tạo, Trung Quốc cổ đại sao mà có được? Thế thì làm sao có thể nói tới “Chủ quyền không thể tranh cãi từ xưa đến nay”?
Thực ra nếu dựa vào quan niệm chủ quyền của phương Tây để nghiêm túc cân nhắc cuộc tranh cãi về quần đảo Nam Sa, chúng ta sẽ phát hiện thấy lập trường của Trung Quốc thật sự rất khó đứng vững được: dựa vào chuyện tàu thuyền Trung Quốc đến nơi ấy mấy lần gì gì đó, đánh bắt được mấy con cá thì chỗ ấy là của Trung Quốc sao? Thế thì trong lịch sử, tàu thuyền của tôi đến chỗ ấy còn nhiều hơn anh nữa kia, năm này qua năm khác tôi đánh cá ở đấy, cớ sao lại không được thừa nhận? Anh bảo anh đến đấy trước, vậy có chứng cứ không? Năm nào tháng nào ai đến đấy? Chuyện này về căn bản là một mớ sổ sách rối bét, dù sao thì cũng chẳng ai có cách nào sinh cơ lập nghiệp được trên những mỏm đá san hô chỉ nhô lên khỏi mặt nước một tý tẹo ấy.
Trong tình hình chuẩn tắc lịch sử rơi vào tình trạng rối rắm và hỗn loạn như trên, thì nguyên tắc “Thềm đại lục vươn ra” và “Chiếm trước” trở nên quan trọng hơn. Mà Nam Sa cách Việt Nam, Malaysia, Phillippines gần hơn cách Trung Quốc, bởi vậy giả thử theo chuẩn tắc địa lý “cự ly gần, thềm đại lục vươn ra” , thì chẳng cần nói, Trung Quốc thậm chí có thể chẳng có được phần nào! Còn nói về nguyên tắc “Chiếm trước” vốn dĩ có thể là cực kỳ có lợi cho Trung Quốc, nhưng vì [Trung Quốc] suốt 40 năm ròng coi nhẹ quyền lợi trên biển, cho nên ngày nay [“Chiếm trước”] lại trở thành ưu thế tuyệt đối của người khác.
Vào cái thời Lâm Tôn lập hạm đội đi Nam Hải, các quốc gia Đông Nam Á hồi ấy căn bản còn là các xứ thuộc địa, sau này mới xuất hiện [là quốc gia độc lập]. Chính quốc các nước thực dân châu Âu đều bị Thế chiến II làm cho tan nát, lúc này đang chuẩn bị cuốn gói chuồn khỏi [các thuộc địa của mình], nào ai còn tâm tư để ý đến mấy hòn đảo san hô trên biển mênh mông kia đâu?
Hơn nữa cho dù Bộ Nội chính của chính phủ Trung Hoa Dân Quốc có in cái Đường 9 đoạn trên tấm bản đồ phát hành trong nước, nhưng chính phủ này hoàn toàn không thông qua con đường ngoại giao để tuyên bố với Đông Nam Á rằng “Vùng này là của tôi” . Người ta [các nước Đông Nam Á] hoàn toàn chẳng biết gì về chuyện ấy thì sao mà có thể “đưa ra ý kiến khác” được? (Song le dùng logic này để luận chứng quần đảo Nam Sa thuộc Trung Quốc là điều vô cùng nguy hiểm, vì logic như vậy từng được Nhật dùng để luận chứng các đảo Pinnacle Islands尖阁列岛 là do Nhật “phát hiện” — hồi ấy khi đảo Điếu Ngư 钓鱼岛 [Nhật gọi là Senkaku Shotō] bị Nhật lén lút ghép vào địa giới “Huyện Okinawa” 冲绳县, chính phủ nhà Thanh cũng vậy, không hề “đưa ra ý kiến khác”, bởi lẽ họ đâu có biết gì!)
Nếu hồi ấy hạ quyết tâm đưa ra đảo cho dù chỉ vài tiểu đoàn lính, chiếm hết quần đảo Nam Sa rồi đóng quân lâu dài ở đấy, thậm chí thiết lập các cơ quan hành chính như “Huyện Nam Sa” để thực thi quản trị hữu hiệu, thế thì sau mấy chục năm kinh doanh, nguyên tắc “Chiếm trước” sẽ trở thành vũ khí lợi hại để giữ chủ quyền ở Nam Sa.
Thế nhưng điều khiến người ta lấy làm tiếc là trong thời gian hơn 4 chục năm, ánh mắt của hai bờ eo biển [ý nói đại lục Trung Quốc và Đài Loan] đều chưa từng hướng vào Nam Hải. Tàu chiến Thái Bình từng để lại ký ức vĩnh cửu tại biên cương biển nơi cùng trời cuối đất năm xưa, về sau trong cuộc nội chiến lại bị ngư lôi của đồng bào mình [ý nói Quân Giải phóng Trung Quốc] đánh chìm. Câu chuyện ấy là một điềm báo hoặc phác họa về số phận lịch sử của các đảo thuộc quần đảo Nam Sa.
Cho đến thập niên 1970, khi các “Rồng con, Hổ con” của Đông Nam Á bắt đầu kiếm được “thùng vàng thứ nhất” trong buôn bán đối ngoại, họ đã phát hiện ra giá trị của quần đảo Nam Sa, nhưng vào lúc ấy chính quyền Đài Loan vừa bị đuổi ra khỏi Liên Hợp Quốc, mình lo cho mình còn chưa xong. Đại lục Trung Hoa thì vừa mới thoát khỏi các thương tích của Cách mạng Văn hóa, hải quân Trung Quốc hồi ấy chẳng qua chỉ mới là đội cảnh vệ ven biển, thiếu khả năng viễn chinh tối thiểu. Hồi ấy tại quần đảo Nam Sa, trừ đảo Thái Bình có quân đồn trú của Đài Loan ra, còn lại đều là những “đảo không người”. Miếng mỡ để trước mặt sao lại không giành lấy? Huống chi là bấy giờ nguyên tắc “Chiếm trước” đã ra lò, ai giành được thì là của người ấy! Anh nói [đảo này] là của anh hả, xin lỗi nhé, thế ai bảo anh không đưa quân ra giữ lấy nó?
Như vậy đấy, Trung Quốc chiếm ưu thế về nguyên tắc “Lịch sử” nhưng lại thiếu những chứng cớ được hệ thống luật biển hiện đại chấp nhận, mà hai nguyên tắc “Thềm đại lục vươn ra” và “Chiếm trước” lại trở thành có lợi cho các quốc gia Đông Nam Á mà bất lợi cho Trung Quốc. Trên tầng nấc pháp lý, vấn đề Nam Sa đã rơi vào tình thế bị động cực kỳ nghiêm trọng [đối với Trung Quốc].
Nói thẳng ra, giả thử bây giờ nổ ra một cuộc chiến tranh xung quanh quần đảo Nam Sa ở Nam Hải, thì trên toàn thế giới có lẽ chỉ có 1,3-1,4 tỷ người [ý nói người Trung Quốc và người Hoa] cho rằng Trung Quốc không phải là kẻ xâm lược!
Nguyễn Hải Hoành lược dịch từ nguồn tiếng Trung.
————
Chú thích của người dịch:
[1] Lâm Tôn 林遵 (1905-1979), học trường Hải quân Hoàng gia Anh, được đào tạo về tàu ngầm tại Đức, 1934 về TQ; từng là Phó đại sứ của Sứ quán TQ tại Mỹ, rồi Tư lệnh Hạm đội II đóng tại vùng Trường Giang. 1948 là thiếu tướng hải quân Trung Hoa Dân Quốc. 1949 dẫn quân gia nhập Quân Giải phóng TQ, trở thành một trong những người sáng lập hải quân TQ. 1955 được phong thiếu tướng hải quân. Đảng viên Quốc dân Đảng TQ, đảng viên thuộc Ủy ban Cách mạng Quốc dân đảng TQ, Đảng viên Đảng Cộng sản Trung Quốc.
[2] Bản Trung văn viết là Trung Á, có lẽ in sai.
[3] Đảo Vĩnh Hưng, tên quốc tế Woody, rộng 2,13 km2, là đảo lớn nhất thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam bị TQ chiếm, hiện có sân bay và thành phố Tam Sa do TQ lập ra. – Đảo Trung Kiện thuộc quần đảo Hoàng Sa, cách đảo Woody 178 km về phía Tây Nam. – Đảo Thái Bình , tên quốc tế Itu Aba, thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam; rộng 0,443 km2, là đảo duy nhất có nguồn nước ngọt. – Đảo Trung Nghiệp, tên quốc tế Thitu; rộng 0,33 km2; do Phillippines kiểm soát.
[4] Đông Sa, Tây Sa, Nam Sa, Trung Sa là 4 quần đảo lớn nhất ở Biển Đông. – Đông Sa, tên quốc tế Pratas Island, ở gần Hong Kong, tức gần đại lục TQ hơn cả; hiện do Đài Loan kiểm soát. – Trung Sa, tên quốc tế Macclesfield Bank; ở gần Phillippines, phần lớn là đảo san hô chìm dưới nước; bãi cạn Scarborough mà TQ gọi là đảo Hoàng Nham thuộc quần đảo này. (theo tài liệu của TQ)
[5] Một nguồn tin của mạng TQ nói trong thời kỳ Việt Nam kháng chiến chống Mỹ, TQ trả cho Việt Nam 2 đảo đá trong Vịnh Bắc Bộ để xây dựng trạm radar, vì thế đường 11 đoạn phải bỏ mất 2 đoạn, còn lại 9 đoạn.
Từ khóa biển Đông Việt Nam đường lưỡi bò Dòng sự kiện đường 9 đoạn Trung Quốc