Cách phán đoán về sự đời – Trích “Cái dũng của Thánh nhân”
- Thu Giang Nguyễn Duy Cần
- •
Cách phán đoán về sự đời, hết sức quan hệ đến sự điềm tĩnh của ta.
Người ta thường tưởng rằng: họa phúc, đều do ở ngoài mà đến. Cái đó lầm, và vì thế người ta mới có lo sợ.
Nếu quả nghèo là khổ mà giàu là sướng, thì những người nghèo như Nhan Hồi, Socrates, đều là khổ hết hay sao, mà những bực phú hữu tứ hải như Tần Thủy Hoàng, Napoléon đều là sướng nhứt ở đời sao?
Nếu bảo con là nợ, vợ là oan gia, thời sao đối với Socrates, có người vợ hung dữ như thế, ông lại cho là một cái phúc đối với ông, vì nhờ đó, ông điêu luyện được cái tính điềm đạm, thản nhiên đối với sự vật ở đời.
Nếu những cái mà thiên hạ đồng cho là họa, như bần, tiện, bệnh, tử đi lạc vào nhà các bực đại hiền như Trang Tử hay Epictète thì cũng không làm gì cho mấy ông ấy nao lòng.
“Người ta thường vì những sự nhỏ mọn không đâu, mà gây ra phiền não cho mình. Nếu ai cũng biết thản nhiên đối với sự vật, bình tâm mà xét thì sẽ thấy trăm việc đến cho mình, chín mươi việc không đáng bận lòng chút nào cả”.
“Làm cho người phiền muộn, không phải là tự ở sự vật, chính là ở cái cách người ta phán đoán về sự vật. Như cái chết có gì gọi là đáng sợ đâu, nếu đáng sợ thì ông Socrates đã sợ; nhưng đáng sợ, là sự phán đoán rằng cái chết là đáng sợ. Như vậy mỗi khi ta buồn bực, bối rối, phiền não, ta đừng trách ai, chỉ trách ta nghĩa là tự trách sự phán đoán của ta mà thôi”.
“Phải nhớ rằng: làm nhục cho mình, không phải là kẻ nó chửi mình, nó đánh mình, nhưng là tự mình phán đoán cho rằng nó làm nhục mình. Có kẻ nào làm cho mình giận dữ thì phải biết rằng chính sự phán đoán của mình nó làm cho mình giận dữ đấy”.
Sự vật như mảnh gương trong, nếu mình cười, thì nó trả cái cười lại cho mình; nếu mình khóc, nó trả cái khóc lại cho mình.
Tôi thường tự hỏi: “Người đánh ta, ta giận, là tại người hay tại ta làm cho ta giận?”. Phần đông sẽ nói: “Vì người đánh ta, nên ta giận”. Nhưng nếu ta biết người đánh ta là người điên, ta có còn giận người ấy nữa không? Chắc hẳn là không, nếu ta là người biết xét. Trái lại, nếu ta biết người đánh ta là người tỉnh, thì ắt ta không khỏi phải nổi cơn giận dữ.
Cũng một việc xảy đến cho ta, mà khi thì ta điềm tĩnh như thường, khi ta lại bực tức nóng giận. Tại nơi đâu? Có phải là tại nơi sự phán đoán của ta chăng? Tôi không thấy tại nơi ngoại vật chỗ nào cả.
Mạnh Tử nói: “Người ta, ở đời, đối với người mà gặp phải kẻ dữ với mình một cách ngang ngược, thì nên coi như mình đi trong bụi rậm, vướng phải gai chỉ nên thong thả đứng lại gỡ dần ra thôi. Gai góc kia có biết gì mà đáng giận? Xử được như thế, thì tâm mình không phiền não mà bao nhiêu nỗi oán hận cũng tiêu tan. Ta nên coi những sự ngang ngược phạm đến ta như chiếc thuyền không, lỡ đâm phải ta, như cơn gió dữ tự lỡ tạt nhầm ta. Ta nghĩ cho cùng có gì đáng giận.”
Cách Socrates xử với người vợ rất hung dữ của ông cũng như thế. Một lần kia, có bạn rủ đi sớm. Bà la lối gầm hét om sòm. Ông vẫn thản nhiên. Khi ông bước ra đi, bà lại đứng trên lầu đổ trút thau nước dơ lên đầu ông. Các bạn ông tỏ dấu bất bình phản đối. Ông cười và bảo: “Thì có gì lạ, hễ trời hết gầm, thì tới mưa”. Ông thản nhiên trở vô thay áo.
Một lần khác, ông mời các bạn dùng cơm tại nhà. Không biết có việc gì, bà vợ bưng cả đồ ăn (ông ăn ròng rau trái) quăng ra ngoài cửa sổ.
Ông cũng như thường, tươi cười bảo: “Thì bả muốn chúng mình ra sân ăn mát mẻ hơn.”
Quá sức tức tối, bà bèn vác chổi ra sân quơ luôn các đồ ông đã lượm sắp vô mâm, dĩa. Các bạn ông giận đỏ mặt, muốn gây sự. Ông biết trước đã nắm tay áo các bạn lại ôn tồn bảo: “Ví dụ các anh em ta đang ngồi ăn, rủi bị một con gà mái nhảy xổ vào, làm văng cả bát đĩa, các anh có đi gây sự với nó không?”
Nếu một người khác gặp phải những trường hợp nầy, chắc chắn là đã mất cả sự điềm tĩnh rồi vậy.
Không phải tại nơi sự vật xảy đến cho ta, nó làm cho ta vui mừng hay giận dỗi, mà quả quyết là tại sự phán đoán của ta nó làm cho ta vui mừng hay giận dỗi mà thôi.
Người trí là kẻ biết phân biệt trong đời những cái gì là định mạng, những cái gì là tự do, nghĩa là những cái gì không tùng ta, và những cái gì tùng ta.
Không tùng ta như: sanh, tử, tai nạn, giàu, nghèo, sang, hèn. Những điều ấy nó đến cho ta hoặc nó bỏ ta mà đi, ta không quyền cản trở nó được. Những điều người khác ban cho ta đặng, họ cũng có thể lấy lại đặng. Cái đó ta không cần phải quan tâm đến. Quan tâm đến nó, là làm nô lệ cho nó. Mình đã mất cả sự tự chủ của mình rồi.
Tùng ta, là ý nghĩ và sự phán đoán của ta. Người ta chửi mình, đó là điều mình không thể cản đặng. Nhưng, vì thế mà cho là nhục, giận dỗi, bực tức; hoặc xem đó như không có, bình tĩnh thản nhiên, cái đó mới tùng mình thôi.
Chết là một định mạng, tìm mà trốn tránh nó vô ích. Cho nó là đáng sợ hay không đáng sợ là cách mình đón tiếp nó. Thể thống con người trong cái guồng máy ghê gớm của tạo vật, chỉ còn có bấy nhiêu đó gọi là Tự do thôi.
Sự điềm tĩnh của ta đối với sự đời cũng chỉ nhờ nơi cái tinh thần tự do ấy – nghĩa là do nơi quan niệm triết lý ấy của ta mà thôi.
Ở đời, hễ có Sanh thì có Tử, có Lợi tất có Hại, có Nên tất có Hư. Muốn có Lợi mà không có Hại, có Nên mà không có Hư, có Sanh mà không có Tử, là người hết sức mê loạn.
Nhưng mà con người thường chỉ muốn biết có Nên, có Lợi mà không có Hư, có Hại, cho nên đối với sự đời không thể gìn giữ đặng sự điềm tĩnh. Đặng thì sướng, mất phải khổ. Nên mà vui, thì hư tất phải buồn. Tâm trí con người bị mắc trong cái vòng lẩn thẩn của cái Sợ, làm gì không sanh ra khiếp nhược được. Chưa ắt đặng mà mừng, lo họ thật sướng. Trong cái sướng ấy đã có cái khổ rồi: sợ mất, nên phải kiên cố giữ gìn. Họ cũng tưởng đã tìm được cái Yên tĩnh cho lòng rồi. Nhưng họ nào có dè họ phải đau khổ vì mảng lo sợ cho tương lai. Tương lai đã báo cho họ biết: không có cái gì là trường cửu cả. Cái ý tưởng ấy nó giày xé tâm can họ, họ phải lo nghĩ đủ điều để gìn giữ củng cố, gượng với lẽ sinh diệt lạnh lùng của Tạo hóa, cho nên: đặng cũng khổ, mà mất cũng khổ. Tâm hồn họ không bao giờ yên tĩnh.
Biết như thế, thì đặng không mừng, mất sẽ không buồn; cứ yên lặng đứng ở trung tâm bánh xe Tạo hóa, mặc tình nó muốn xoay trở cách nào cũng được.
Bất kỳ là một việc làm nào, đừng bao giờ lo nghĩ đến kết quả của nó. Muốn Nên, đã là khổ; rủi Hư, khổ đến bực nào? Vậy, phải tập làm vì làm; còn kết quả tốt hay xấu thế nào, đừng bận đến. Làm mà không bận mắc trong cái kết quả của sự làm, đó là cái mật pháp để gây cho tâm hồn luôn luôn được điềm tĩnh.
Xem xét chung quanh ta hằng ngày, ta thấy chán những điều gì ta quá lo lắng cho được có kết quả tốt đẹp, thường vì đó mà bị hư hỏng.
Phải chùi sạch, đừng để một mảy may lo sợ gì cả, nó bấu bíu tâm hồn mình. Muốn khen, thì sợ chê; muốn được, thì sợ mất; muốn vinh, thì sợ nhục. Cái đó phải diệt trừ cho tận gốc.
Những kẻ sống đài các nơi lâu đài dinh thự mà vẫn xem thường như lúc cùng khổ ở chốn nhà tranh vách đất; những kẻ đang ngồi trên thiên hạ mà vẫn không xem là vinh, cầm gọng xe làm thân trâu ngựa, cũng không cho là nhục, những kẻ ấy bao giờ cũng giữ được tấm lòng thanh cao siêu thoát. Ở đời, họ không còn có cái gì phải sợ nữa cả.
Người ta vì quá ham mê sự sung sướng về vật chất, thành ra tâm hồn phải trở nên hèn yếu bạc nhược: họ rất sợ sự nghèo khổ. Trong khi lo sợ ấy, họ phải khép mình chịu nhiều nỗi khuất phục về tinh thần trước nhiều thế lực đáng bỉ. Không có một sự đê tiện nào họ không dám làm, miễn gìn giữ được cái địa vị đã cung cấp cho họ sự sung sướng ấy là đủ. Họ tưởng họ làm chủ lấy sự vật; thật ra, sự vật ấy đã làm chủ lấy họ mà họ không dè. Kẻ nào còn sống nô lệ lấy tình dục mình, nô lệ lấy sự sung sướng của mình đều là những người không bao giờ mong mỏi đi vào cõi Chí thiện của sự Điềm Đạm được.
Epictète nói: “Anh có con ngựa tốt, hãy nói: con ngựa của tôi tốt, chứ không phải tôi tốt”. Hay thay lời nói ấy! Tầm thường lắm, nhưng mà sâu sắc làm sao! Thiên hạ hiện thời đã đi ngược với nó rất nhiều. Phần đông thiên hạ tưởng rằng giá trị của con người ở nơi sự vật nhiều ít của người ấy tích trữ, như danh vọng, tiền bạc, xe hơi, nhà lầu, ruộng đất chứ không phải nơi cái giá trị thật có của họ. Ta sang, ta quí, là không phải do nơi cái giá trị thật sang quí của cái người của ta, mà là do nơi cái điều thiên hạ ban cho, do nơi những xe hơi, nhà lầu cùng ruộng đất, trâu bò của mình. Thế thì cái thể thống của con người nghĩ cũng quá nhẹ thật. Đấy là tự mình khinh mình vậy. Người ta vô tâm đến bực ấy là cùng. Vậy chứ vì đâu thiên hạ đua nhau tranh giành tiền bạc, thế lực, nếu không phải để tăng giá trị cho mình, mưu nhiều sự sung sướng cho mình là gì? Thật, người ta ít ai biết tự trọng.
Muốn gìn giữ được một tâm hồn bất uý, thản nhiên, ta phải biết xem sự vật ở đời bằng con mắt “đại đồng” vinh nhục, thị phi, nên hư, tốt xấu đều như nhau cả.
Trong sách Bhagavad-Gita của Ấn Độ có nói: “Kẻ nào biết xem hết thảy sự vật như nhau, sướng như khổ, vui như buồn, đặng như mất, biết xem cục đất như hòn vàng, viên đá như hòn ngọc, kẻ ấy đã đạt được đến cõi Điềm Đạm chí cực rồi.”
Trang Tử, trong chương Thu thủy cũng nói: “Mỗi mỗi đều có hai phương diện. Muốn có phải mà không có quấy, muốn có trị mà không có loạn, là chưa rõ cái Lý của Trời Đất, cái Tình của vạn vật, ấy là mơ tưởng trời mà không đất, âm mà không dương, hai phương diện đồng có của mỗi vật.”
“Muốn phân hai phương diện tương đối ấy ra như hai vật có thật, thì là vu phản, nếu không phải là ngu xuẩn”.
“Người thông đạt ở đời thấy lợi không vội mừng, thấy vinh không vội sướng: ‘Sủng vi nhượng, nhục vi hạ; đắc chi nhược kinh, thất chi nhược kinh’ (Vinh trên thì nhục dưới; đặng, sợ mất; mất, sợ nhục). Đó đều là những điều làm cho người khổ tâm khổ trí.”
“Làm mà như không làm, lo lắng mà như không lo lắng; lớn, nhỏ, nhiều, ít đều xem như nhau: khen không mừng, chê không bận, đó là cái hạnh của Thánh nhân vậy”.
Câu chuyện “Bắn cung” sau nầy tả rõ tâm trạng người chí nhân điềm tĩnh như thế nào:
Liệt Ngự Khấu cùng với Bá Hôn Vô Nhân bắn cung. Liệt Ngự Khấu, tay cầm cung, chỗ cùi chỏ để một chung nước. Bắn liên tiếp mấy phát, mà mặt nước trong cái chung không chao động. Bá Hôn Vô Nhân nói: “Cái cách bắn ấy là cách bắn của người quá lo trong việc bắn, chưa phải là cách bắn của người thản nhiên đến việc bắn. Anh hãy đi với tôi lên núi cao kia kiếm chỗ gần hố sâu thăm thẳm mà bắn, chừng ấy, sẽ biết anh còn giữ đặng cái vẻ điềm tĩnh ấy nữa không”. Hai người cùng đi.
Bá Hôn Vô Nhân, đứng tận bên mé hố, chân đứng nửa trên mặt đất, nửa ngoài không không, nghiêng đầu ra sau và giương cung lên Liệt Ngự Khấu thấy vậy mồ hôi toát ra, sợ quá té xỉu trên mặt đất. Bá Hôn Vô Nhân cười: “Bậc Chí nhân, con mắt trên ngó tận mây xanh, dưới xem tận đáy đất, ngoài xem tận chân trời, mà lòng vẫn không biết nao núng. Có như thế thời mới bắn được cái bắn thản nhiên. Chứ như anh, chưa gì cặp mắt đã hốt hoảng, lo sợ, thì có bắn, làm gì mà bắn cho trúng đặng.”
Người ta chỉ biết sống trong yên ổn và chỉ biết tìm yên ổn mà thôi. Ở trong cảnh yên ổn mà hành động, thì dễ mà gìn giữ vẻ thản nhiên bình tĩnh. Nhưng, đến khi gặp cảnh không yên ổn cho thân mình, thời luống cuống như kẻ mất hồn, làm gì nên trò trống! Biết sống trong cảnh thường mà không hay biết sống trong cơn biến, người thế ấy không bao giờ giữ đặng luôn luôn cái tinh thần điềm tĩnh.
Trang Tử có nói: “Sanh tử, tồn vong, cùng đạt, bần phú, kẻ hiền và người bất tiếu, khen chê, lạnh ấm, đó là cái biến của sự đời, cái hành vận của cái Mạng. Nó tương tiếp nhau, hết ngày tới đêm, hết sống tới chết, hết vinh tới nhục ta không thể biết được nguyên nhân nó vì đâu.
Những điều ấy, ta chớ nên bận đến mà làm gì, đừng bao giờ để cho nó chen vào phá hoại cái yên tĩnh của tâm hồn mình. Gìn giữ mãi sự yên tĩnh ấy nơi lòng, đừng để cho bất kỳ là vật gì chao động được, dù là sự vui sướng cũng vậy. Đó gọi là toàn đức.
Bực chân nhân không ham sống, không sợ chết. Sanh ra không mừng, chết đi không sợ. Thản nhiên mà đến, thản nhiên mà đi, không bận mắc vào đâu cả. Thuận theo Đạo mà sống, nên Người không cưỡng với Trời. Tâm họ bao giờ cũng quả quyết, cử chỉ rất trầm lặng, gương mặt đơn sơ, hạnh kiểm điều độ, tình cảm mực thước. Gặp việc thì làm, không gặp việc thì không làm, không tỏ tâm sự cho ai bất kỳ.
Những kẻ chưa đến bực Chân nhân thì thích bè bạn, thích tâm sự, muôn việc đắn đo lo sợ, không biết thản nhiên đối với những cuộc dinh hư tiêu trưởng trong đời, thường lại đem thân mà tiêu huỷ trong cuộc săn tìm danh lợi.”
Nhan Uyên nói với Trọng Ni: “Lúc tôi ngồi đò đi ngang qua một cái thác kia, tên đưa đò cầm tay lái như thần. Tôi hỏi nó: ‘Làm sao đặng vậy?’ Nó bảo: ‘Cái tài đó, một người lội học dễ dàng, một người lặn không học mà biết.’ Nó nói gì vậy? Tôi không hiểu chi hết.”
Trọng Ni nói: “Người lội, không tưởng tới nước. Vì đã quen với cái hiểm nghèo của nước mà nó không sợ nữa. Còn người lặn, thì lại không còn tưởng tới nước là gì nữa. Nó ở trong nước như ở trong chỗ tự nhiên của nó.
Ý lo sợ về hiểm nghèo của nước ít làm động lòng người lội, nên giao thuyền cho nó cầm lái thì thuyền vững vàng. Đối với người lặn thì ý lo sợ về sự hiểm nghèo của nước lại càng không làm động lòng nó đặng. Nếu giao thuyền cho nó cầm lái thì thuyền phải hoàn toàn vững vàng hơn nữa.
Như trong cuộc bắn bia. Nếu món định thưởng là một vật bằng đất giá hèn, người bắn không bị mấy động lòng, thong thả dùng hết xảo diệu của nó. Nếu món đồ thưởng là một vật bằng vàng hay bằng ngọc, người bắn sẽ bị cảm động nhiều quá, sự bắn của họ không còn chắc chắn chút nào nữa hết.”
Kỷ Tỉnh Tử lãnh phần tập gà đá độ cho vua.
Được 10 ngày, hỏi thăm, Tỉnh Tử nói: “Chưa, gà còn kiêu khí”.
Mười ngày nữa, hỏi thăm, Tỉnh Tử nói: “Gà còn gáy đáp với gà khác. Thấy gà khác còn biết cảm động”.
Mười ngày sau nữa, hỏi thăm, thì Tỉnh Tử cũng nói: “Nó còn thạnh khí, hăng hái lắm”.
Mười ngày nữa, lại hỏi thăm, thì Tỉnh Tử nói: “Được rồi! Nghe tiếng và thấy mặt đồng loại của nó, nó không còn biết cảm động nữa. Nó nay như khúc gỗ rồi. Không con gà nào đối đầu với nó nổi nữa”.
Cách điêu luyện ấy cũng là cách điêu luyện để đi đến tinh thần đại dũng. Tới đó là tới cái chỗ mà Trang Tử gọi là “TOÀN ĐỨC”, cái đức hạnh viên mãn của con người.
Xem kỹ các học thuyết tôn giáo, bất kỳ là học thuyết hay tôn giáo nào, ta sẽ thấy cái mục đích cuối cùng là đem con người đến chỗ điềm tĩnh, tức là đến chỗ cùng cực của nhân phẩm.
Đạo gia hay Phật gia dùng đến các phương pháp tĩnh tọa bồ đoàn, đều lấy cái Tịnh làm gốc cho công phu luyện tập để đạt đến một tinh thần điềm đạm chí cực. Cái đó đã cao xa mà uyên áo, không phải ai ai cũng hiểu được và làm được. Nếu ta chưa từng vào đó, thời chưa nên vội phê bình nó một cách cẩu thả như phần đông đã làm.
Cái tâm trạng thanh cao mầu nhiệm và hùng dũng ấy, người xưa đã khéo ngụ tả trong câu chuyện đắc đạo của Phật dưới gốc cây bồ đề:
Phật khi ngồi dưới gốc cây bồ đề, giác nhiên ngộ đạo, tâm trí sáng suốt, hào quang tủa khắp bốn phương làm rung động cả vạn vật chung quanh.
Thần Mara, chúa tể các lực lượng của vật chất, của tội lỗi, của tối tăm không thể chịu nổi có người đã thoát khỏi được cái vòng nô lệ của mình, bèn đem cả đạo binh ma tướng quỉ đi kiếm Phật.
Thần Cây, thần Đất cùng các vị thần của các lực lượng tự nhiên đều nói với Mara: “Người ấy đắc đạo rồi. Ấy là người sáng suốt nhất, không còn một sự tối tăm nào ẩn được bên người. Đi làm gì đó? Ngươi sẽ phải thất bại ngay. Người ấy là người không còn ai trong trời đất này thắng nổi nữa.”
Thần Mara tức tối, bèn hoá phép, nổi dông nổi gió, làm cho phi sa tẩu thạch, đất nẻ núi nghiêng để khiếp hoảng Phật.
Thản nhiên, Phật ngồi như khúc gỗ, trong tâm lặng lẽ như không có việc gì.
Túng thế, Mara bèn nghĩ ra cái kế lấy Danh, Lợi, Nữ sắc cùng những cái mà lòng người dễ xiêu, dễ động nhất, để lay chuyển lòng Phật.
Lấy Danh để khêu gợi lòng tự ái; Lợi để gợi lòng tham muốn; lấy Sắc để gợi lòng dục vọng. Nhưng cũng không làm cho Phật động lòng mảy may nào cả.
Bấy giờ là lúc dùng đến oai vũ; Mara bèn ra lịnh cho binh ma tướng quỉ cầm gươm giáo xông vào, lấy tên lửa bắn vào mình Phật. Phật cũng vẫn thản nhiên, trong lòng bất động. Tên, giáo vô gần tới là đã biến thành những đóa hoa thơm rớt chung quanh mình Phật. Bấy giờ, Mara xấu hổ, nổi trận cuồng phong bay về động phủ.
Văng vẳng nghe hai bên đường các vị thần của các lực lượng tự nhiên bàn bạc với nhau: “Người ấy là người không còn một sức mạnh nào trong đời thắng được nữa. Người ấy đã làm chủ cả sự vật trong trời đất rồi”.
Trích: Cái dũng của Thánh nhân – Nguyễn Duy Cần
Đăng lại từ Fanpage Thú Chơi Sách
Mời độc giả ghé thăm
Xem thêm:
Mời xem video:
Từ khóa tu dưỡng Thu Giang Nguyễn Duy Cần giác ngộ Tĩnh tâm Socrates