Di sản của Abraham Lincoln và “Chính quyền của dân, do dân, vì dân”
- Huỳnh Duy Lộc
- •
Abraham Lincoln sinh ngày 12 tháng 2 năm 1809 trong một ngôi nhà gỗ ở hạt Hardin, bang Kentucky, cha là một người đi khẩn hoang ở miền đất hoang vu đã tận lực làm việc để có được sự sung túc và sự kính trọng của mọi người trong cộng đồng.
Một cuộc tranh chấp đất đai đã buộc cha mẹ anh phải chuyển đến hạt Perry, bang Indiana vào năm 1817, săn bắn và canh tác trên một mảnh đất công để mưu sinh. Năm Abraham 9 tuổi, mẹ anh mất khi mới 34 tuổi, anh càng lúc càng xa cách với cha và thấy chán ngán lao động cực nhọc mà anh phải đảm nhận khi còn quá nhỏ tuổi. Không đầy một năm sau, cha anh tái giá với bà Sarah Bush Johnston, một góa phụ có 3 con ở bang Kentucky. Người mẹ kế hiền dịu này rất yêu thương Abraham, đã khuyến khích anh tập đọc, tập viết và theo học được 18 tháng ở trường. Đa phần những người đi khẩn hoang như cha và mẹ kế của anh đều mù chữ và cách duy nhất để mở mang kiến thức ở miền đất hoang vu này là đọc sách, và những người đương thời thường thấy anh đi bộ hàng mấy dặm đường để mượn một cuốn sách. Có lẽ trong những cuốn sách anh đọc kỹ vào thuở ấu thơ có Kinh thánh, những cuốn truyện như “Robinson Crusoe”, “Pilgrims Progress” và Ngụ ngôn của Aesop.
Tháng 3 năm 1830, gia đình Abraham lại chuyển đến hạt Macon, bang Illinois và chàng thanh niên 22 tuổi đã tự lực mưu sinh bằng lao động chân tay. Anh chuyển đến làm việc trong cộng đồng nhỏ bé ở thị trấn New Salem, bang Illinois, làm nhân viên cửa hiệu tạp hóa, nhân viên bưu điện và nhân viên kho hàng suốt nhiều năm. Chính trong thời gian làm việc ở New Salem, anh đã phát triển kỹ năng nói chuyện trước công chúng và khả năng kể chuyện giúp anh gây được cảm tình với nhiều người. Khi cuộc chiến Black Hawk bùng nổ vào năm 1832 giữa người Mỹ và các thổ dân da đỏ, những người lính tình nguyện ở New Salem đã bầu anh làm người chỉ huy, nhưng suốt thời gian cuộc chiến diễn ra, anh chẳng tham gia một trận đánh nào, chỉ có “vài trận chiến đẫm máu với những con muỗi khát máu”, nhưng cũng có được những mối quan hệ về sau sẽ rất có ích cho sự nghiệp của anh. Sau khi cuộc chiến Black War kết thúc, anh bắt đầu sự nghiệp chính trị, được bầu vào cơ quan lập pháp của bang Illinois vào năm 1834 với tư cách là đảng viên của đảng Whig. Cương lĩnh của đảng Whig là ủng hộ chính sách thuế quan để bảo vệ hàng hóa và để cho chính phủ tài trợ cho cơ sở hạ tầng, và thời gian tham gia sinh hoạt với đảng này đã giúp anh có quan điểm đúng về vấn đề nô lệ, không chỉ coi nó như một điều tệ hại mà còn là một trở ngại cho sự phát triển kinh tế. Anh bắt đầu có ý muốn theo học ngành luật, đọc cuốn “Commentaries on the Laws of England“ của William Blackstone để trau dồi kiến thức về luật. Khi được nhận vào luật sư đoàn vào năm 1837, anh chuyển đến thành phố Springfield, bang Illinois, làm việc cho công ty luật John T. Stuart.
Anh gặp và yêu một thiếu nữ tên Anne Rutledge, nhưng chưa kịp đính hôn với nàng thì nàng đã chết vì bệnh thương hàn khi mới có 22 tuổi, khiến cho anh suy sụp tinh thần suốt một thời gian dài. Công việc ở công ty luật đảm bảo cho anh một cuộc sống tương đối, nhưng anh thấy chỉ hoạt động ở Springfield không đủ nên mở rộng phạm vi hoạt động, tham gia sinh hoạt của các tòa án. Năm 1847, anh được bầu làm hạ nghị sĩ bang Illinois và suốt 2 năm làm việc tại Hạ viện (từ năm 1847 tới năm 1849), anh luôn trung thành với cương lĩnh của đảng Whig của anh, không có được một đồng minh nào trong hoạt động chính trị, nhưng cũng có cơ hội để lên tiếng về cuộc chiến tranh Mỹ – Mexico. Việc phản đối cuộc chiến tranh này đã làm cho anh mất lòng nhiều người nên thay vì ra ứng cử thêm một nhiệm kỳ nữa vào Hạ viện, anh quyết định trở về Springfield để tiếp tục làm luật sư. Một năm sau khi Anne Rutledge qua đời, Lincoln theo đuổi nàng thiếu nữ tên Mary Owens rồi chia tay với nàng để kết hôn với nàng Mary Todd, một thiếu nữ có học thức xuất thân trong một gia đình danh giá ở bang Kentucky. Vợ chồng anh có 4 người con, nhưng 3 người chẳng may chết sớm, chỉ còn lại một người con trai duy nhất.
Năm 1854, Quốc Mỹ thông qua đạo luật Kansas-Nebraska, hủy bỏ Thỏa ước Missouri, cho phép các tiểu bang và vùng lãnh thổ tự quyết định có cho phép chế độ nô lệ tồn tại hay không. Đạo luật Kansas-Nebraska bị phản đối dữ dội ở 2 bang Kansas và Illinois, dẫn tới sự hình thành của đảng Cộng hòa. Anh có nhiệt tình trở lại với hoạt động chính trị, gia nhập đảng Cộng hòa vào năm 1856. Năm 1857, Tòa án tối cao của Mỹ ra phán quyết Scott v. Sanford gây tranh cãi, theo đó người Mỹ gốc Phi không được coi là công dân Mỹ và không được quyền thừa kế. Tuy nhìn nhận người Mỹ da đen không thật sự ngang bằng người Mỹ da trắng, anh vẫn tin như các nhà lập quốc rằng tạo hóa sinh ra mọi người đều bình đẳng và có những quyền bất khả xâm phạm. Anh ra tranh cử với thượng nghị sĩ Stephen Douglas và trong diễn văn đọc khi được đảng Cộng hòa giới thiệu ra ứng cử vào Thượng viện, anh chỉ trích Stephen Douglas, Tòa án tối cao và Tổng thống Buchanan đã bênh vực chế độ nô lệ, nói rằng “một ngôi nhà bị chia rẽ không thể nào đứng vững”. Báo chí đã tường thuật 7 cuộc tranh luận giữa anh và Stephen Douglas tại nhiều thành phố của bang Illinois suốt thời gian tranh cử, trong đó tâm điểm là vấn đề chế độ nô lệ. Tuy cuối cùng Stephen Douglas thắng cử trong cuộc chạy đua vào Thượng viện, nhiều người Mỹ đã biết đến tên tuổi và quan điểm chính trị của chàng luật sư Abraham Lincoln ở bang Illinois.
Vào tháng 5 năm 1860, đảng Cộng hòa đề cử Abraham Lincoln ra ứng cử tổng thống và ngày 6 tháng 11 năm ấy, ông đắc cử nhờ sự chia rẽ trong hàng ngũ đảng Dân chủ, trở thành vị tổng thống thứ 16 của Mỹ. Ông đã theo phương châm “Hãy giữ những người bạn của mình ở gần và những kẻ thù của mình gần hơn nữa”, chọn cả những đối thủ chính trị của mình để giữ các bộ quan yếu của chính phủ như William Seward, Salmon P. Chase, Edward Bates và Edwin Stanton. Nhưng trước khi ông nhậm chức tổng thống vào ngày 4 tháng 3 năm 1861, 7 bang miền Nam đã ly khai: thoạt đầu, bang Nam Carolina quyết định rút ra khỏi Liên bang bằng một lá phiếu đồng thuận của Nghị viện rồi 6 bang khác là Georgia, Alabama, Florida, Mississippi, Louisiana và Texas cũng ly khai, thành lập một liên minh gọi là Confederated States of America. Sau đó, 4 bang khác là Arkansas, Bắc Carolina, Virginia và Tennessee nhập vào 7 bang ly khai, làm tăng số bang ly khai lên thành 11 bang. Abraham Lincoln đã đọc bài diễn văn có những câu mở đầu nổi tiếng: “Một nhà mà nội bộ chia rẽ không thể đứng vững được. Một chính phủ không thể mãi mãi ở trong tình trạng nửa tự do nửa nô lệ. Tôi không muốn Liên bang bị giải tán, tôi không muốn gia đình sụp đổ. Nhưng tôi muốn sự chia rẽ chấm dứt…”
Các bang miền Nam đã khởi chiến: ngày 12 tháng 4 năm 1861, tướng P. Beauregard đã ra lệnh nã súng đại bác vào đồn Sumter ở bang Nam Carolina. Một cuộc chiến tranh khốc liệt đã bùng phát, kéo dài 4 năm cho đến ngày 9 tháng 4 năm 1865, tướng Robert E. Lee, chỉ huy của quân miền Nam, đầu hàng tướng Ulysses S. Grant, chỉ huy của quân miền Bắc, ở Appomatox. Quân đội các bang miền Bắc mất 360.000 người trong số 2 triệu binh sĩ, còn phe Liên minh mất 250.000 người, bằng 1/3 quân số. Nhiều vùng rộng lớn ở các bang miền Nam bị tàn phá và tất cả miền Nam nước Mỹ suy tàn, nhưng mục tiêu chính của Tổng thống Abraham Lincoln đã đạt được: sự chia rẽ nội bộ đã chính thức chấm dứt.
Ngày 14 tháng 4 năm 1865, chỉ 4 ngày sau khi các bang miền Bắc giành chiến thắng, Tổng thống Abraham Lincoln đã bị một diễn viên tên John Wilkes Booth theo phe Liên minh ám sát bằng một phát súng lục trong Nhà hát Ford ở thủ đô Washington D.C.
Di sản Abraham Lincoln để lại là sự toàn vẹn của Liên bang và việc giải phóng những người nô lệ da đen bằng hai sắc lệnh hành pháp ban hành ngày 22 tháng 9 năm 1862 và ngày 1 tháng giêng năm 1863. Bài diễn văn bất hủ của ông là bài diễn văn đọc ở Gettysburg vào ngày 19 tháng 11 năm 1863 có câu “Chính quyền của dân, do dân, vì dân” thể hiện tính chất của một chính phủ dân cử thực thụ.
Nhà thơ Carl Sandburg đã viết về những giây phút Abraham Lincoln đọc bài diễn văn khi khánh thành nghĩa trang Gettysburg vào năm 1863: “15.000 người – có người nói là có đến 30.000 hoặc 50.000 người – đã thao dượt ngày hôm trước ở nghĩa trang Gettysburg để chào đón đoàn người đi bộ và cưỡi ngựa đến Gettysburg – bao gồm các thành viên Chính phủ, lực lượng bộ binh và hải quân, các thống đốc bang, các thị trưởng, một đơn vị quân đội, các nhân viên y tế, các nhà báo, các nhân viên cứu hỏa…”
Đúng 10 giờ sáng, Lincoln rời khỏi nhà của gia đình Wills trong bộ quần áo màu đen, đầu đội chiếc mũ cao bằng lụa, tay mang găng trắng, ngồi trên lưng ngựa chào đón những người đến chúc mừng ông. Vào lúc 11 giờ, cuộc diễn hành bắt đầu. Hồi 10 giờ, người ta đã trao cho ông bức điện tín của Stanton báo tin đạo quân của tướng Burnside bị bao vây ở Knoxville, nhưng vẫn còn an toàn, tướng Ulysses Grant đang bắt đầu một trận đánh lớn ở Chattanooga và vợ ông cho hay con trai nhỏ của ông đã khỏi bệnh và sắp ra khỏi nhà vào ngày hôm nay. Cuộc diễn hành chấm dứt đã 15 phút rồi mà ông Everett, diễn giả chính, vẫn chưa đến. Ban nhạc tấu nhạc cho đến 12 giờ trưa. Cuối cùng, ông Everett cũng đến… Vị diễn giả đứng im nhìn đám đông, phía xa xa là những cánh đồng lúa mì, những vườn anh đào, những dải dất thoai thoải và xa hơn nữa là dãy núi xanh mờ. Ông cất giọng: “Khi đôi mắt tôi lướt nhìn qua những cánh đồng vừa được tưới máu của những người lính dũng cảm và trung thành, tôi cảm nhận rõ rệt hơn bao giờ hết rằng người xưa đã có lý khi nói rằng hy sinh tính mạng cho đất nước là một điều ngọt ngào và cao cả biết bao nhiêu…” Ông nhắc lại cuộc nội chiến đã khởi đầu như thế nào, những người lính đã trải qua 3 ngày chiến đấu ác liệt ở Gettysburg ra sao, tranh cãi với học thuyết về chủ quyền quốc gia, chỉ ra những điểm tương đồng giữa lịch sử Mỹ với lịch sử châu Âu và nhắc lại câu nói của Pericles: “Toàn bộ trái đất này là nấm mồ của những người nổi tiếng”. Ông nói suốt 1 tiếng 57 phút, gần như đọc từng chữ của một bài diễn văn có thể lấp đầy 2 trang báo. Các thành viên câu lạc bộ Baltimore Glee hát một bài tụng ca do Benjamin B. French sáng tác khi bài diễn văn kết thúc.
Vì đã đọc trước bài diễn văn của Everett, Lincoln biết khi nào sẽ đến phiên mình đọc diễn văn. Ông lấy bản thảo bài diễn văn ra từ túi áo vét, đeo cặp kính gọng thép, đọc lại bài diễn văn của mình rồi nhét trở vào túi áo. Hill Lamon đứng dậy nói: “Tổng thống Hoa Kỳ” và Lincoln đứng lên, cầm hai tờ giấy ghi bài diễn văn, chỉ thỉnh thoảng mới liếc nhìn và đọc bằng giọng rành mạch và cao vút:
“87 năm trước, ông cha ta đã tạo dựng trên lục địa này một quốc gia mới, được thai nghén trong Tự do, được cung hiến cho niềm xác tín rằng mọi người sinh ra đều bình đẳng.
Ngày nay, chúng ta đang tiến hành một cuộc nội chiến vĩ đại nhằm thử thách quốc gia này, hoặc bất kỳ quốc gia nào khác, xem có đủ quyết tâm theo đuổi lý tưởng mà đất nước ấy đã được thai nghén và cung hiến cho. Chúng ta gặp nhau ở đây, trên bãi chiến trường này. Chúng ta đến đây để cung hiến một phần của mảnh đất, nơi yên nghỉ cuối cùng của những người đã hiến dâng mạng sống mình để tổ quốc được sống. Đó là điều chúng ta cần phải làm.
Song, trong một ý nghĩa lớn lao hơn, chúng ta không thể cung hiến, cũng không thể thánh hóa mảnh đất này. Những con người dũng cảm, đang sống hay đã chết, là những người từng chiến đấu ở đây, đã cung hiến nó, họ đã làm điều mà những con người yếu đuối như chúng ta không thể làm gì thêm hơn nữa. Thế giới sẽ không quan tâm, cũng chẳng nhớ đến những gì chúng ta đang nói ở đây, nhưng thế giới sẽ không bao giờ quên những gì họ đã làm tại đây.
Ấy là cho chúng ta, những người còn sống, cần cống hiến mình cho chính nghĩa vẫn chưa hoàn tất, mà những người từng chiến đấu ở đây đã cống hiến đời mình để sự thành công của chính nghĩa ấy mau đến.
Ấy là cho chúng ta, những người đang hiện diện ở đây, tiếp nhận trọng trách đang đặt trước mặt chúng ta – chúng ta tiếp nhận từ những người đã khuất hiện đang được vinh danh lòng tận tuỵ với chính nghĩa mà họ đã cống hiến bằng chính sinh mạng mình – ngay tại đây, chúng ta quyết tâm không để họ chết vô ích – đất nước này, dưới sự quan phòng của Thiên Chúa, sẽ sản sinh một nền tự do mới – và chính quyền này của dân, do dân, vì dân sẽ không lụi tàn khỏi mặt đất”. (Abraham Lincoln, Carl Sandburg, tr. 441, 442, 443)
Theo facebook Huỳnh Duy Lộc
Xem thêm:
Từ khóa tự do Abraham Lincoln Nội chiến Mỹ quyền bất khả xâm phạm