Nguyễn Thông: “Tôi hiền” nhà Nguyễn
- Trần Hưng
- •
Nguyễn Thông làm quan trừng trị bọn cường hào ác bá ở địa phương, nhiều lần dâng kế sách lên Vua để chống Pháp và chấn hưng đất nước.
Trong gian khó học chữ Thánh hiền
Vào thời nhà Nguyễn đầu thế kỷ 19 có ông Nguyễn Hanh người ở Tân Thạnh (thuộc Gia Định) yêu thích chữ Thánh hiền, lấy tên hiệu là Tú Viên cư sĩ. Bấy giờ vùng đất Nam bộ ít thầy ít người đỗ đạt, nên ông Nguyễn Hanh cũng không có điều kiện theo đuổi khoa cử. Ông kết hôn và có 2 người con trai là Nguyễn Thông và Nguyễn Hài.
Thuở nhỏ hai anh em được cha dạy học ở nhà. Khi Nguyễn Thông lên 10 tuổi thì mẹ mất, đến năm 17 tuổi thì cha qua đời. Gia đình trở nên khó khăn, Nguyễn Thông phải bươn chải làm lụng kiếm sống, song cũng rất ham học chữ.
Vì trong vùng không có thầy dạy, hai anh em phải tự học.
Năm 1845, có tiến sĩ Nguyễn Duy (tự là Nhữ Hiền) được cử làm Tri phủ Tân An (Gia Đình). Nguyễn Thông cùng em đến xin học theo. Nhưng chỉ 2 năm sau nào năm 1847, Nguyễn Duy phải ra bắc làm Tri phủ Quảng Hóa (thuộc tỉnh Thanh Hóa), hai anh em lại tiếp tục tự học.
Năm 1849, Nguyễn Thông thi Hương và đỗ cử nhân. Vào đến thi Hội, bài thi của ông làm rất tốt nhưng lấm mực nên bị đánh hỏng. Tuy vậy vì nhà quá nghèo, Nguyễn Huân không thể thi cử tiếp, ông bèn chọn nhậm chức Huấn đạo dạy học ở Phú Phong (thuộc tỉnh An Giang) vào năm 1851.
Năm 1855, Nguyễn Thông được triệu ra Huế giữ chức Hàn lâm viện tu soạn, tham gia soạn sách “Nhân sự kim giám” (gương vàng soi việc người).
Tham gia chống Pháp, dâng kế sách nhưng Vua không chấp nhận
Năm 1859, quân Pháp tiến đánh Gia Định rồi đánh chiếm các tỉnh Nam bộ. Triều đình cử Thượng thư bộ Hộ là Tôn Thất Hiệp (còn gọi là Tôn Thất Cáp) đem 1.000 viện binh vào Nam, chỉ huy toàn quân phòng thủ.
Quê nhà bị mất vào tay quân Pháp, Nguyên Thông xin được vào nam chống Pháp, ông được cử làm tham mưu coi việc cơ mật cho Tôn Thất Hiệp.
Tôn Thất Hiệp cho dựng đồn Chí Hòa chống Pháp. Sau này Nguyễn Tri Phương được cử đến cho xây dựng thành Đại đồn vây chặt quân Pháp. Cả vua Tự Đức cùng Triều đình nhà Nguyễn đặt toàn bộ hy vọng đại đồn Chí Hòa có thể ngăn quân Pháp.
Nguyễn Thông được thăng từ chức Vệ úy lên làm Chưởng vệ sung chức Phó Đề đốc để hiệp thương cùng Trương Định chống giặc.
Quân Pháp đưa thêm viện binh đến nâng tổng số quân lên 5.000, cùng vũ khí hiện đại tấn công vào Đại đồn Chí Hòa. Quân Việt anh dũng chống trả nhưng không chặn được quân Pháp. Năm 1861, Đại đồn Chí Hòa thất thủ.
Tuy nhiên sau khi Đại đồn Chí Hoà thất thủ, vua Tự Đức không còn hy vọng chống Pháp, chỉ muốn đàm phán hòa hoãn với Pháp, vì thế mà ký hòa ước nhượng 3 tỉnh Biên Hòa, Gia Định và Định Tường cho Pháp. Các tướng được lệnh bãi binh trong đó có cả Trương Định. Triều đình cử Nguyễn Thông làm Đốc học ở Vĩnh Long.
Năm 1867, ông được cử làm Án sát Khánh Hòa rồi Quảng Ngãi. Thời gian này ông dâng lên vua Tự Đức 4 bản điều trần kế sách hưng thịnh đất nước và chống Pháp, tuy nhiên cả Vua cùng các quan đại thần khác đều không ủng hộ các kế sách này cũng như các kế sách của nhiều vị quan khác mong muốn thay đổi đất nước mạnh mẽ hơn.
Giúp dân trừng trị cường hào ác bá
Năm 1870, Nguyễn Thông được thăng hàm Quang Lộc tự khanh, thự bố chánh Quảng Ngãi. Tại đây ông làm rất nhiều việc cho dân chúng như trồng cây, cải tiến thủy lợi, khuyến học, đồng thời ban cấp sách cho các nơi.
Quảng Ngãi thời ấy rất nghèo khó, Nguyễn Thông đến đây chỉ 1 năm đã cho đắp được đê, đào được kênh ngòi. Không chỉ thế ông còn thẳng tay trừng trị tệ nạn quan lại cùng cường hào ác bá, cả những quan lại được quan lớn ở Triều đình che chở. Vì thế mà nhiều kẻ ghét ông, tìm cách khiến ông phạm sai lầm để xử, trong khi ông nhận được sự tin yêu của dân chúng.
Một lần Nguyễn Thông xử một vụ án không chính xác, ông bị mất chức và tống giam trong sự phản đối của dân chúng. Nhân quan Khâm sai Nguyễn Bình đi công cán qua Quảng Ngãi, dân chúng tập trung đến rất đông xin thả Nguyễn Thông ra để ông tiếp tục công việc của mình. Nguyễn Bình đem lời dân tâu lên Vua, Vua liền cho thả Nguyễn Thông ra và cho đến Huế làm ở Tàng Thư lâu (nơi lưu trử tài liệu và công văn của nhà Nguyễn).
Làm việc ở Tàng Thư lâu, nhân một lần mắc bệnh, ông xin được nghỉ rồi đến núi Tà Đôn, tỉnh Bình Thuận. Tại đây ông kết giao với quan lại trí thức và cùng giúp dân khai khẩn đất đai.
Năm 1874, Nguyễn Thông được khôi phục hàm Tư vụ, lĩnh chức Chủ sự ở Bộ Lễ. Năm 1876, triều đình thấy ông là người giỏi văn học, đề cử cho thăng lĩnh chức Tư nghiệp Quốc tử giám. Ông được cử cùng với một số người khác duyệt lại quyển “Khâm định Việt sử thông giám cương mục”.
Năm 1877, ông dâng sớ lên Triều đình xin cho lập đồn điền để khai khẩn các vùng đất hoang ở Bình thuận. Triều đình đồng ý, đến năm 1881 thì ông được thăng hàm Hồng lô tự khanh. Ông mất năm 1884.
Nguyễn Thông là kẻ sĩ điển hình trong thời kỳ này, khi quân Pháp tiến đánh Nam bộ, ông hăm hở vào nam chống Pháp, rồi lại lần lượt 4 lần dâng kế sách mong Vua thực hiện để chấn hưng đất nước nhưng không được chấp nhận. Ông làm quan trừng trị bọn cường hào ác bá ức hiếp dân chúng. Làm quan trong hoàn cảnh đất nước có nhiều biến động, ông gửi gắm nỗi niềm của mình vào bài “Phú nghĩa trủng” như sau:
Kìa xương khô mà còn thu lượm
Sao kẻ sống lại bị bỏ rơi
Lũ quan lại tha hồ tàn bạo
Để béo mình hút hết máu người
Tay đưa thoi mà thân rét cóng
Chân đi bừa mà bụng đói hoài
Tuy hơi thở vẫn còn thoi thóp
Mà khác nào đã xuống tuyền đài.
Trần Hưng
Xem thêm:
- Cuộc tấn công bất ngờ vào tòa Khâm Sứ Pháp ở Huế (P1)
- Nguyễn Văn Nghi: Vị quan làm thầy dạy cho 3 đời Vua
Mời xem video:
Từ khóa quan lại thời xưa nhà Nguyễn khoa bảng






























