Azurite (tiếng Latinh: Lapis Linguis) là một loại đá cổ xưa có bề dày lịch sử. Đây là một loại khoáng chất quý hiếm có màu xanh lam đặc trưng tuyệt đẹp. 

Azurite thường thấy ở dạng các tinh thể nhỏ có vân hình trụ, dạng phẳng hoặc chóp đối xứng. Một số dạng khác là các cụm tinh thể lớn có bề mặt sần sùi và các sợi phát sáng. Chúng có thể được tìm thấy ở nhiều khu vực trên thế giới từ Arizona đến Zambia, Châu Âu, Châu Úc và Trung Quốc.

hon da biet hat
Azurite là một khoáng chất hydroxit cacbonat đồng có giá trị với màu xanh lam tuyệt đẹp. Năng lượng nó phát ra được cho là có tác dụng rất tốt cho sức khỏe thể chất và tinh thần. (Ảnh: Ed Uthman / Wikimedia Commons CC BY 2.0)

Họ hàng của đá azurite

Lapis trong tiếng Latinh có nghĩa là đá. Lapis Linguis (Azurite) có người anh em họ là Lapis Lazuli (Lazurite). Chúng đều có màu xanh da trời, là màu nằm giữa màu xanh lam và màu xanh lơ trên bảng màu, được coi là màu của bầu trời trong những ngày nắng đẹp.

Silicat đồng azurite được hình thành do sự phong hóa của các mỏ quặng đồng, và có thành phần hóa học là Cu3(CO3)2(OH)2. Azurite hầu như luôn được tìm thấy cùng với hoặc ở gần khoáng vật màu xanh Malachite, một loại khoáng hydroxit cacbonat đồng khác. Tên Malachite bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp là Lalaku, có nghĩa là cây cẩm quỳ, azurite thường được thay thế bằng Malachite. 

Công dụng

Do đặc tính mềm (tỷ lệ từ 3,5 đến 4,0 trên thang đo độ cứng Mohs), azurite không thích hợp để sử dụng làm đồ trang sức. Thay vào đó, đôi khi nó được đánh bóng và tạo hình thành các viên đá tròn. 

Loại đá này dễ bị phong hóa, phai màu dần dưới ánh nắng mặt trời và hoàn toàn biến thành màu đen do tác dụng của nhiệt. Tuy nhiên khi nung nóng lại từ từ nó sẽ tạo ra một màu xanh lam đậm và được sử dụng làm chất màu trong tranh Nhật Bản.  

Azurite được cho là có thể làm đầu óc tỉnh táo và nó thường được gọi là “bầu trời mùa đông quang đãng trên sa mạc”. 

đá cổ xưa
Azurite và malachite thường được tìm thấy cùng nhau như mẫu vật trong hình được trưng bày tại Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên ở Washington DC. (Ảnh: qua Flickr CC BY-SA 2.0)

Văn hóa và Lịch sử

Pliny the Elder, một tác gia người La Mã, nhà tự nhiên học và nhà triết học tự nhiên, đã đặt tên cho azurite là “kuanos”, có nghĩa là “màu xanh đậm” trong tiếng Hy Lạp.

Cho đến đầu thế kỷ 19, azurite được biết đến với cái tên là Chessylite, đặt theo tên của mỏ Chessy Mines, nơi nó được khai thác ở Pháp. Từ thế kỷ 15 đến giữa thế kỷ 17, azurite là chất màu xanh được sử dụng rộng rãi nhất trong hội họa châu Âu. Azurite nghiền cũng rất phổ biến trong các nghệ nhân Ai Cập cổ đại. Ở phương Đông, sắc tố azurite xuất hiện vào thời nhà Minh và nhà Tống trên các bức vẽ trên tường và trong hang động ở Trung Quốc. 

Chùa Đại Phật Thổ Đường, ở thôn Thổ Đường, tỉnh Sơn Tây được xây dựng lần đầu tiên vào triều đại Bắc Tề, và sau đó được xây dựng lại vào năm 1205 sau Công nguyên trong triều đại nhà Tấn, ngôi đền có tượng Bồ tát Quán Thế Âm mặc y phục được sơn bằng một loại khoáng chất được các nhà khoa học xác định là Azurite.

Ý nghĩa văn hóa

Các bộ lạc thổ dân châu Mỹ coi Azurite như một loại đá thánh và có tác dụng chữa bệnh rất tốt. Liên quan đến tâm linh, trước đây nó được thổ dân ở một số bộ lạc Châu Mỹ đeo trước ngực như bùa hộ mệnh để giúp người đeo nó giao tiếp với linh hồn dẫn hướng. Bộ tộc Zuni đã sử dụng nó cùng với đá Alabaster (thạch cao tuyết hoa).

Truyền thuyết cho rằng azurite đã được sử dụng rộng rãi ở Atlantis và ở Ai Cập cổ đại, nơi nó được sùng kính như một phương tiện giúp các thầy tu nhận thức rõ hơn về các vị thần. Các thầy tu ở đền thờ Ai Cập tin rằng việc sơn lên trán con mắt bảo vệ của thần Horus bằng azurite sẽ tăng cường năng lực thể chất của họ. 

Người Maya dùng azurite để truyền tải thông tin, kiến ​​thức và trí tuệ; trong khi người La Mã cổ đại coi trọng azurite vì các đặc tính y học của nó.

Năng lượng rung động

Edgar Cayce, nhà tiên tri người Mỹ, được cho là đã tìm kiếm azurite để có thể giao tiếp với các sinh mệnh ở không gian khác để chỉ dẫn ông các việc trong cuộc sống. Năng lượng rung động của ‘Những viên đá biết hát’ (azurite) đã giúp Edgar Cayce giữ được sự thông thái để giải quyết một cuộc khủng hoảng trong đời mình. Ông đã được hướng dẫn đến địa điểm cụ thể nơi có nhiều mỏ đồng/azurite ở Arizona và sau đó đến các mỏ azurite ở Mexico. Theo ông Cayce, azurite là một trong những loại đá quý có năng lượng rung động mạnh nhất trên trái đất. 

Một số nghiên cứu cho thấy đá và vật chất không chỉ là những thứ vô hồn. Chúng chỉ ra rằng mọi vật trong vũ trụ đều có dạng năng lượng với tần số và độ rung của riêng chúng. Như kỹ sư và nhà vật lý người Mỹ gốc Serbia Nikola Tesla đã nói: “Trong một tinh thể, chúng ta có bằng chứng rõ ràng về sự tồn tại của một hình thức sự sống, và mặc dù chúng ta không thể hiểu được sự sống của một tinh thể, nhưng nó vẫn là một thực thể sống”.

Mẫu đá 

Viên đá của Vua Solomon (Đá Eilat) là quốc bảo của Israel. Đá Eilat được đặt theo tên của thành phố Eilat ở Israel, nơi nó được khai thác ban đầu. Azurite và malachite là một trong những khoáng chất đồng thứ cấp được tìm thấy trong viên đá này.

Vào tháng 2/2021, một phần đá quý từ Hội chợ Thế giới năm 1893 đã được trưng bày lại tại Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Hoa Kỳ ở New York khi phòng triển lãm Đá quý và Khoáng sản mở cửa trở lại sau thời gian tạm đóng cửa do dịch Covid-19.

Một khối đá quặng azurite, malachite và quặng đồng được khai thác bởi Công ty khai thác mỏ hợp nhất Copper Queen vào năm 1891 và được trưng bày tại Hội chợ Thế giới năm 1893 ở Chicago có chiều cao 150cm, nặng bốn tấn đã được tặng cho Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Hoa Kỳ. Nó được gọi là “Hòn đá biết hát” vì đã phát ra một âm thanh bất thường trước khi hệ thống xử lý không khí của bảo tàng được cài đặt, nó là một trong khoảng 5000 mẫu đá được trưng bày ở Bảo tàng đá quý và khoáng sản Allison và Roberto Mignone Halls 

Gần đây, một loại đá granit trắng với những quả cầu azurite màu xanh lam rực rỡ nằm rải rác trên bề mặt mới được phát hiện gần biên giới Trung Quốc-Pakistan. Chiếu xạ tia X cho thấy azurite nằm ở bên trong hòn đá. Nó được tìm thấy ở chân đỉnh núi K2 cao thứ hai thế giới thuộc dãy Karakoram. 

Hòn đá granit azurite này được gọi là “đá granit K2”, “K2 Jasper,” hoặc “Raindrop Azurite”. Đó là một mẫu vật kỳ diệu của tự nhiên và thu hút được rất nhiều sự chú ý tại các cuộc triển lãm đá quý và khoáng sản. Sự kết hợp bất thường giữa azurite và đá granit đã làm dấy lên một số cuộc tranh luận, và thậm chí cả tranh chấp kỳ quặc giữa các nhà đá quý học.

Tác giả: Simone Jonker / Vistion Times tiếng Anh
Ngọc Chi biên dịch

Xem thêm: