Đạo trị quốc khoan dung nghiêm khắc của Hoàng đế Khang Hy
- Diêm Minh Ngọc
- •
Khang Hy là một vị Hoàng đế anh minh nổi tiếng, khai sáng ra một thời kỳ thịnh thế trong lịch sử Trung Hoa. Ông ở ngôi 61 năm, văn trị, võ công, an định quốc gia, mở rộng cương thổ, giúp dân an lạc, được ca ngợi hết mực là một vị Hoàng đế nhân từ.
Khang Hy từng nói: “Kinh sử tử tập, hàng ngàn hàng vạn quyển, không gì khác ngoài bốn chữ Nhân Nghĩa Lễ Trí. Lý học của Trình Chu thuộc làu, không gì ngoài bốn chữ Thiên Lý Lương Tâm”. Hoàng đế Khang Hy đã dùng cả cuộc đời để thực hành những chữ này. Việc trị quốc của ông hoặc khoan dung, hoặc nghiêm khắc, nhưng không gì là không tuân theo đạo lý nội tại, toàn quốc từ trên xuống dưới, trong và ngoài, ai nấy đều ca ngợi lòng nhân ái của ông, quan lại bái phục, bách tính thần phục.
Khoan dung nhân từ
Mạnh Tử nói: “Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh”, dân là quý nhất, rồi đến xã tắc, cuối cùng là quân vương. Lòng nhân từ của Khang Hy biểu hiện ở những quyết sách nhân đức với bách tính. Trong thời gian trị vì, mọi quyết sách ông thực thi đều là yêu dân, thương xót dân, xem xét dân, làm lợi cho dân. Ông cho rằng chỉ cần khiến bách tính được nghỉ ngơi an dưỡng thì thời thái bình thịnh thế lý tưởng sẽ xuất hiện. Ông nhiều lần ra lệnh dừng việc chiếm đất đai, miễn giảm thuế, đồng thời quy định: “Thịnh thế tăng nhân đinh, vĩnh viễn không tăng thuế”. Sau này, Hoàng đế Ung Chính tiếp nối Khang Hy lại quy định “bỏ thuế đinh, chỉ thu thuế đất”, thuế đinh theo đầu người mấy ngàn năm lại được xóa bỏ như vậy.
Sự nhân đức của Khang Hy cũng thể hiện ở việc hình pháp của nhà Thanh trong thời kỳ này. Năm Khang Hy thứ 22 (1683), số lượng phạm nhân “toàn quốc thu quyết” (xử tử hình) “còn chưa tới 40 người”. Đối với triều thần phạm pháp, Khang Hy cũng khoan hồng. Ngao Bái phạm tội chết nhưng chỉ xử tù giam, sau khi chết lại được xá miễn vì có công tích khai quốc. Sách Ngạch Đồ kết bè đảng cũng được giảm tội chết.
Năm Khang Hy thứ 25 (1686), Khang Hy nói với triều thần rằng:
Ta thấy rằng từ xưa đến nay, các đế vương cai quản chăm lo bách tính, trị vì trong sạch sáng sủa, giáo hóa thông đạt. Nếu dùng hình phạt trừng trị dân chúng, khiến người dân sợ lưới pháp luật nên may mắn không phạm tội, chi bằng dùng đạo đức cảm hóa, khiến dân chúng thuần nhất hướng thiện, không nhẫn tâm làm những việc xấu ác.
Sách Thượng Thư viết: “Vạn bang trong thiên hạ hài hòa dung hợp, bách tính lê dân trở nên lương thiện hòa thuận”. Cũng nói: “Hoàng đế đối với bề tôi cần đơn giản, rõ ràng, dễ thực hiện, đối với dân chúng cần khoa hồng đại lượng”.
Thời Đường Nghiêu, Thuấn, Vũ, việc cai quản dựa vào nguyện vọng của người dân, giống như làn gió cổ động người dân bốn phương, hiệu quả đã được nghiệm chứng ở điểm này. Ta rất ngưỡng mộ sự hưng thịnh của thời thượng cổ, nỗ lực thúc đẩy giáo hóa, hy vọng nhờ đó mà cảm hóa và khơi dậy thiện lương của mọi người, cùng mọi người bước đến Đạo chính trực.
Năm Khang Hy thứ 16 (1677), khi thị sát ngoài biên ải, có lần Khang Hy trên đường đi tuần tra thấy có một người nằm bên đường. Chiểu theo tình hình bình thường thì người này ngăn cản xa giá, cần phải xử lý nghiêm khắc. Khang Hy lại nói là muốn hỏi xem có chuyện gì. Ông sai thị vệ đánh thức người nằm bên đường đó, hỏi họ tên anh ta. Thì ra người này là người làm thuê, đi xa kiếm sống, trên đường trở về nhà đói quá nên ngất đi. Khang Hy lập tức kêu thuộc hạ không được làm kinh động đến người đó, còn lệnh cho thuộc hạ đun cháo nóng cho anh ta ăn. Khang Hy còn tìm hiểu tình hình chi tiết, biết gia cảnh anh ta rất khốn khó, lệnh thuộc hạ đem cho anh ta một số tiền, và sai người đưa anh ta về tận nhà. Người xưa nói: “Chớ vì việc xấu nhỏ mà làm, chớ vì việc tốt nhỏ mà không làm”. Khang Hy yêu dân, bắt đầu từ những việc rất nhỏ. Qua đó cũng có thể nhìn ra phần nào đạo trị quốc nhân từ của ông.
Căn dặn tướng quân chỉ được báo ân, không được báo thù
Trước khi thu phục Đài Loan, Khang Hy tham khảo ý kiến quần thần trong triều đình. Một số người cho rằng, cần sử dụng hàng tướng của Đài Loan là Thi Lang vì ông ta biết rõ tình hình cụ thể của Đài Loan, hơn nữa lại có năng lực chỉ huy xuất chúng. Một số người khác lại cho rằng Thi Lang và họ Trịnh ở Đài Loan vẫn còn có liên hệ chưa dứt, nếu Thi Lang cầm binh thì có thể đầu hàng nhà họ Trịnh…
Sau khi điều tra, Khang Hy phát hiện ra rằng con trai của Thi Lang là Thi Tề và cháu trai là Thi Hơi đã cố gắng quy phục triều Thanh, kết quả là toàn bộ 73 người của 2 gia đình đều bị nạn. Vậy nên Khang Hy đã giao toàn bộ binh quyền cho Thi Lang, dành cho ông ta sự tín nhiệm và ủng hộ đầy đủ.
Trước khi xuất binh, Khang Hy nói với Thi Lang rằng: “Trẫm không sợ khanh không đánh được Đài Loan, nhưng trẫm thực sự cũng có chỗ lo lắng, khanh có biết không?”
Khang Hy nói tiếp: “Thuộc hạ của Trịnh Thành Công thì có người có ân với khanh, có người có thù với khanh, ân oán liên tiếp, vô cùng phức tạp. Nếu khanh đánh một trận tiêu diệt hết thì tự nhiên không cần nói. Nếu có người muốn quy hàng, trẫm tặng khanh tám chữ: Chỉ được báo ân, không được báo thù”.
Sự ủng hộ và tín nhiệm của Khang Hy đối với Thi Lang khiến Thi Lang có thể dốc toàn lực trong tay đánh một trận. Khi thắng lợi, ông đã không tính đến ân oán cá nhân, khoan hồng đối đãi với tù binh, khiến những người quy hàng tâm phục khẩu phục.
Nghiêm khắc với quan tham ô
Khang Hy thúc đẩy một không khí thanh liêm trong các quan lại. Đối với những người gian dối tham ô tiền thuế thì ông trừng phạt rất nghiêm khắc.
Có một danh sĩ nổi tiếng đương triều tên là Diệp Phương Ái, người thành Côn Sơn, từng có tên trên bảng vàng. Một lần nha môn phát hiện ra ông đã nộp thiếu 1 lạng bạc tiền thuế. Diệp Phương Ái cho rằng chỉ thiếu một lạng bạc nhỏ không đáng kể, bèn viết thư cho Khang Hy, cầu xin khoan hồng. Nhưng Khang Hy không cho rằng đúng, vẫn chiểu theo quy định pháp luật đương thời, cắt bỏ công danh của Diệp Phương Ái.
Viên quan Tứ Xuyên là Ca Vĩnh Thức khi thu thuế quốc gia, cứ thu 200 lạng bạc thì lại tự thu thêm 12 lạng. Ngoài ra còn hối lộ Tuần phủ Tứ Xuyên. Vậy là Tuần phủ Tứ Xuyên bị xử tử. Ca Vĩnh Thức đáng tội xử tử, nhưng chết vì bệnh.
Tri phủ Thái Nguyên Triệu Phượng Thiệu tự lập các danh mục thuế riêng, cưỡng ép thu thuế và chiếm làm của riêng gần 20 vạn lạng bạc, cũng bị xử tử.
Năm Khang Hy thứ 36 (1697), Tuần phủ Sơn Tây là Ôn Bảo và Bố chính sứ Sơn Tây là Cam Độ hợp tác bòn rút bách tính, khiến “bách tính Bồ Châu đều chạy trốn vào trong rừng”, tập trung lại làm phản. Hoàng đế Khang Hy phái Uy Luân đến chiêu dụ vỗ yên dân chúng, đồng thời nói với Uy Luân rằng: “Dân Bồ Châu nếu không muốn đầu hàng thì áp tải Ôn Bảo và Cam Độ đến chỗ người dân xử trảm, tham quan như thế này, nếu không giết đi thì lấy gì để thu phục dân chúng?”
Minh quân xét rõ từ cái nhỏ nhất
Mùa xuân năm Khang Hy thứ 46 (1707), Khang Hy đi tuần phương Nam, đến Tô Bắc thị sát. Ông đã rất nghiêm khắc giáo huấn viên quan phụ trách thủy lợi là Trương Bằng Cách.
Khang Hy trách mắng: “Hôm nay ta trông thấy các cột tiêu dọc vị trí sông đào lộn xộn không có thứ tự, mà lại không có người biết rốt cuộc tại sao. Việc này mà không để tâm thì việc gì mới để tâm?” Ông chỉ ra hai việc: Một là địa thế cao quá, nước không thông đến được. Hai là cột tiêu đào sông đa phần cắm trên đất mộ phần của người dân.
Khang Hy lại tiếp tục chỉ ra sự lãng phí của công trình thủy lợi, yêu cầu quan viên phụ trách phải thay đổi, lại chỉ rõ cách làm để vừa tiết kiệm sức người sức của, vừa khiến cho việc thủy lợi được giải quyết tốt. Sau khi Khang Hy hạ lệnh nhổ bỏ tất cả các cọc tiêu dọc vị trí sông đào, “bách tính trông thấy như thế, vui mừng nhảy múa”.
Không lâu sau, Khang Hy hạ lệnh, đối với những viên quan lơ là trách nhiệm sẽ xử lý cách chức, hạ cấp, và yêu cầu Trương Bằng Cách “cần luôn luôn tuần tra xem xét đê điều sông ngòi, không quản gió mưa, cố gắng làm hết chức trách”. Có thể thấy, đối với quan lại, Khang Hy thưởng phạt rất công minh.
Đạo trị quốc coi trọng “tâm pháp”
Khang Hy cho rằng: “Tâm pháp là cội nguồn của phép trị vì”. Trong “Đình huấn cách ngôn”, Khang Hy giải thích rằng: “Con người chỉ có một cái tâm, khởi lên là suy nghĩ, suy nghĩ có chính hay không chỉ trong khoảnh khắc. Nếu một niệm bất chính, khoảnh khắc là biết, lập tức theo đó mà quy chính lại, thì tự đã cách Đạo không xa”. Điều mà Hoàng đế Khang Hy
Một đời minh quân ắt có một đời hiền thần, các quan lại thời bấy giờ học theo Hoàng đế, dùng nhân phẩm khích lệ nhau, sùng chuộng danh tiết, tiết tháo, yêu dân làm lợi cho dân, phong cách thanh liêm trở thành phổ biến, “toàn cõi thanh bình, nhân dân lạc nghiệp”.
Đăng lại có chỉnh sửa từ bài viết “Sự khoan dung và nghiêm khắc của bậc quân chủ anh minh Khang Hy“
Đăng trên Minghui.org
Tác giả: Diêm Minh Ngọc
Xem thêm:
Mời xem video:
Từ khóa đạo trị quốc Hoàng đế Khang Hy