Thiếu các chiến lược phòng ngừa và phát triển thuốc mới cùng với việc lạm dụng thuốc kháng sinh là những yếu tố dẫn đến sự gia tăng của các tác nhân gây bệnh kháng thuốc kháng sinh.

Du an moi 48
Tử vong do kháng thuốc kháng sinh sẽ tăng đột biến vào năm 2050. (Ảnh minh họa: Shutterstock)

Trong một dự báo đe dọa phá vỡ những tiến bộ y tế qua nhiều thập kỷ, một nghiên cứu toàn cầu mới dự đoán rằng, các bệnh nhiễm trùng do kháng thuốc kháng sinh có thể lấy đi sinh mạng của hơn 39 triệu người vào năm 2050, có khả năng đẩy thế giới vào kỷ nguyên hậu kháng sinh.

Báo cáo do Dự án Nghiên cứu Toàn cầu về Kháng thuốc Kháng sinh (GRAM) công bố đã vẽ nên bức tranh về một cuộc khủng hoảng sức khỏe cộng đồng đang rình rập, trong đó các bệnh từng có thể điều trị được có thể lại trở nên nguy hiểm gây chết người.

Mối đe dọa toàn cầu đang gia tăng

Báo cáo GRAM, được công bố trên The Lancet (Tuần san Y khoa) và trình bày tại hội nghị thượng đỉnh về sức khỏe toàn cầu ở Geneva, Thụy Sĩ, cho thấy xu hướng: Số ca tử vong do nhiễm trùng vì kháng thuốc kháng sinh dự kiến ​​sẽ tăng lên 1,91 triệu ca vào năm 2050 từ khoảng 1,14 triệu vào năm 2021. “Tử vong do hậu quả trực tiếp của” ngụ ý về mối quan hệ nhân quả rõ ràng, cho thấy rằng, nguyên nhân của ca tử vong là do vi khuẩn kháng thuốc chứ không phải do bất kỳ yếu tố can thiệp nào liên quan.

“Thuốc kháng khuẩn là một trong những nền tảng của việc chăm sóc sức khỏe hiện đại và tình trạng kháng thuốc ngày càng tăng là nguyên nhân chính gây lo ngại”, tác giả nghiên cứu – Tiến sĩ Mohsen Naghavi cho biết trong một tuyên bố.

Tiến sĩ Naghavi cũng là giáo sư khoa học về số liệu sức khỏe và là trưởng nhóm của Nhóm nghiên cứu AMR tại Viện Đo lường Sức khỏe, Đại học Washington.

Những phát hiện này nhấn mạnh rằng, tình trạng kháng thuốc kháng sinh (AMR) đã là mối đe dọa đáng kể đối với sức khỏe toàn cầu trong nhiều thập kỷ và mối đe dọa này đang ngày càng gia tăng.

“Việc hiểu được xu hướng tử vong do AMR đã thay đổi như thế nào theo thời gian và chúng có khả năng thay đổi như thế nào trong tương lai là rất quan trọng để đưa ra quyết định sáng suốt giúp cứu sống nhiều người,” ông cho biết.

Sự thay đổi nhân khẩu học trong tình trạng kháng thuốc kháng sinh

Báo cáo nêu bật sự thay đổi về nhân khẩu học. Trong khi tỷ lệ tử vong vì nhiễm trùng do kháng thuốc kháng sinh ở trẻ em dưới 5 tuổi đã giảm, thì người lớn tuổi lại ngày càng mắc nhiều loại siêu vi khuẩn hơn. Số lượng người lớn tuổi, đặc biệt là những người mắc nhiều bệnh lý nền, bị nguy cơ cao hơn khi hiệu quả của thuốc kháng sinh giảm sút.

Tuy nhiên, trong khi người lớn tuổi được dự đoán là đối tượng bị ảnh hưởng nhiều nhất, thì vấn đề AMR lại ảnh hưởng đến tất cả mọi người, Tiến sĩ Sharon Nachman, Trưởng khoa Bệnh truyền nhiễm Nhi khoa tại Bệnh viện Nhi Stony Brook, chia sẻ với tờ The Epoch Times.

Bà cho biết “Nó có tác động lan tỏa đến tất cả các bệnh nhân của chúng tôi. Đừng nhầm lẫn rằng, đây là vấn đề của người lớn tuổi – thực tế không phải vậy – nó ảnh hưởng đến mọi lứa tuổi”.

Các yếu tố thúc đẩy sự gia tăng của các tác nhân gây bệnh kháng thuốc kháng sinh

Các cơ quan y tế quy sự gia tăng của các tác nhân gây bệnh kháng thuốc kháng sinh cho một số yếu tố có liên quan với nhau:

  • Lạm dụng kháng sinh trong y khoa, cả cho người và thú y
  • Các chiến lược phòng ngừa nhiễm trùng không đầy đủ
  • Thiếu phát triển thuốc mới

Trên toàn cầu, nhiều quốc gia tiếp tục kê đơn thuốc kháng sinh không cần thiết cho các bệnh nhiễm trùng do vi-rút, chẳng hạn như cảm lạnh và cúm đã làm trầm trọng thêm vấn đề.

Một nghiên cứu được công bố vào năm 2022 đã cảnh báo rằng, tình trạng kháng thuốc kháng sinh là một trong những thách thức cấp bách nhất đối với sức khỏe toàn cầu trong thời đại của chúng ta.

Các tác giả viết rằng: “Tình trạng kháng thuốc kháng sinh dường như là điều không thể tránh khỏi và các ngành công nghiệp dược phẩm vẫn tiếp tục thiếu quan tâm đến việc đầu tư vào nghiên cứu các loại kháng sinh mới”.

Theo Tiến sĩ Nachman, có 3 yếu tố chính thúc đẩy cuộc khủng hoảng AMR:

  • Tuổi tác: Khi mọi người già đi, họ có xu hướng được kê đơn có nhiều loại kháng sinh hơn.
  • Các bệnh đi kèm: Người lớn tuổi thường mắc nhiều bệnh, dẫn đến việc phải đi khám bác sĩ nhiều hơn và khả năng phải dùng thuốc kháng sinh từ nhiều nhà cung cấp khác nhau cao hơn.
  • Quá phụ thuộc vào dịch vụ cấp cứu và chăm sóc không cần hẹn trước

“Quá thường xuyên, trước, trong và sau COVID, chúng ta thấy các bác sĩ nói rằng, ‘Nếu bị bệnh, nên đến các phòng cấp cứu hoặc các trung tâm không cần hẹn trước’”, Tiến sĩ Nachman cho biết.

Bà lưu ý rằng, những cơ sở này, không quen với tiền sử bệnh của bệnh nhân, có nhiều khả năng kê những đơn thuốc kháng sinh không cần thiết.

“Bạn biết đấy, nghe có vẻ ngớ ngẩn,” bà nói. “Nhưng hãy đứng bên ngoài một Trung tâm chăm sóc khẩn cấp và xem xem có bao nhiêu người đến đây cần phải được kê đơn thuốc kháng sinh. Không thể là tất cả đều cần phải dùng thuốc kháng sinh. Vì vậy, đó là yếu tố tuổi tác, yếu tố bệnh đi kèm và yếu tố lạm dụng thuốc”.

Hậu quả của việc không hành động

Tiến sĩ Nachman cho biết, việc tăng số lượng mầm bệnh kháng thuốc kháng sinh có thể làm giảm nghiêm trọng các lựa chọn điều trị.

Bà nói: “Bạn đến bệnh viện, mắc một mầm bệnh kháng nhiều loại thuốc nên tôi không thể điều trị được. Và điều đó gợi nhớ đến thời chúng ta chưa có thuốc. Bạn vào viện trong tình trạng nhiễm trùng, chúng tôi đã xác định được tác nhân gây bệnh của bạn và tôi không thể làm gì để giúp bạn khỏe hơn”.

Theo Hội đồng Cố vấn Tổng thống về Chống Vi khuẩn Kháng thuốc Kháng sinh thì sự hợp tác giữa các chính phủ, nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe và cộng đồng toàn cầu là điều cần thiết để hạn chế sự lây lan của các tác nhân gây bệnh kháng thuốc.

Báo cáo GRAM nhấn mạnh rằng, trong khi một số quốc gia đã triển khai các chương trình quản lý kháng sinh mạnh mẽ để chống lại tình trạng kê đơn quá mức thì các sáng kiến ​​này đang không được thực hiện nhất quán trên toàn cầu. Ở nhiều nơi, nhận thức của công chúng về mối nguy hiểm của việc sử dụng sai thuốc kháng sinh vẫn còn ở mức thấp đáng báo động. Những người ủng hộ sức khỏe nhấn mạnh sự cần thiết của các chiến dịch giáo dục toàn diện để thúc đẩy việc sử dụng thuốc kháng sinh một cách có trách nhiệm.

Ý nghĩa kinh tế của AMR

Tính cấp thiết của tình hình càng được nhấn mạnh hơn nữa bởi những ý nghĩa kinh tế của tình trạng kháng thuốc kháng sinh gia tăng. Một báo cáo từ Pew Charitable Trusts (Quỹ Từ thiện Pew) ước tính rằng, gánh nặng kinh tế của tình trạng kháng thuốc kháng sinh có thể lên tới khoảng 100 nghìn tỷ đô la vào năm 2050 nếu không được kiểm soát. Khi chi phí chăm sóc sức khỏe tăng lên nhưng hiệu quả lại giảm do tỷ lệ nhiễm trùng gia tăng thì các hiệu ứng lan tỏa có thể ảnh hưởng đến nền kinh tế quốc gia trên toàn cầu.

Để ứng phó với những xu hướng này, các nhà khoa học đang nghiên cứu các giải pháp, bao gồm phát triển các loại kháng sinh mới, liệu pháp thực khuẩn (một loại phương pháp điều trị sử dụng vi-rút để nhắm mục tiêu và tiêu diệt vi khuẩn) và các phương pháp điều trị thay thế khác.

Giao tiếp quốc tế tốt hơn giúp giải quyết vấn đề

Tiến sĩ Nachman cho biết, sự cấp thiết ngày càng tăng liên quan đến AMR một phần là do các tác nhân gây bệnh kháng thuốc đang được theo dõi tốt hơn trên phạm vi quốc tế. Trước đây, nếu một quốc gia có vấn đề gì đó với thuốc kháng sinh, “thì kiểu như, ‘Ồ, giấu kỹ vào, đừng nói về nó, huýt sáo trong bóng tối đi, nó không ở đây đâu'”.

Tiến sĩ Nachman cho biết, giờ đây, với sự trao đổi tin tức tốt hơn giữa các quốc gia và sở y tế, bức tranh toàn cầu về AMR đã trở nên rõ ràng hơn.

“Vì vậy, chúng ta có cảm nhận tốt hơn về việc, OK, quốc gia này đang trong ​​tình trạng kháng thuốc X. Nếu bạn trở về từ quốc gia đó, bạn sẽ không nhận được thuốc kháng sinh X,” bà nói. “Vì bạn trở về từ đó và đó là thứ bạn mang theo và nó sẽ không hiệu quả, chúng ta sẽ tìm thứ gì đó khác”.

Tiến sĩ Nachman cũng nhấn mạnh về tầm quan trọng của việc bệnh nhân cung cấp thông tin cho các nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe biết về việc họ đã đến đâu, họ đã dùng loại thuốc kháng sinh nào gần đây, họ đã làm gì và họ đang sử dụng loại thuốc nào khác.

Những gì chúng ta có thể làm

Tiến sĩ Nachman cho biết, cách đầu tiên để làm chậm tình trạng kháng thuốc AMR – đơn giản chỉ là “sử dụng kháng sinh đơn giản, hợp lý”.

“Bạn đến khám, bị sốt hoặc cảm thấy ốm, không có nghĩa là bạn cần phải dùng kháng sinh”, bà nói. “Một trường hợp điển hình gần đây là trường hợp cá nhân, con dâu tôi mang thai, bị đau họng, đã đến phòng cấp cứu. Họ lấy mẫu xét nghiệm, nói rằng kết quả nuôi cấy cổ họng của cô ấy là âm tính, nhưng đây là một loại kháng sinh. Vâng, không, nếu kết quả nuôi cấy cổ họng của bạn là âm tính thì bạn sẽ không được dùng kháng sinh.

“Chúng ta thường xuyên thấy rất nhiều tác nhân gây bệnh đường hô hấp. Và chúng ta biết rằng, thuốc kháng sinh sẽ không giúp ích gì nếu cơ thể bị tác nhân gây bệnh do vi-rút đường hô hấp – bạn sẽ không khỏe lại. Chúng ta vẫn thấy rất nhiều bệnh nhân bị nhiễm RSV (vi-rút hợp bào hô hấp) hoặc cúm, hoặc thậm chí là COVID được dùng thuốc kháng sinh khi thực tế điều đó sẽ không giúp họ khỏe lại nhanh hơn”.

Tiến sĩ Nachman cũng cảnh báo về “việc mua thuốc kháng sinh” – đó là hành vi của bệnh nhân đi đến nhiều phòng cấp cứu cho đến khi nhận được đơn thuốc kháng sinh thì mới thôi. Bà lưu ý rằng, hành vi này, đôi khi bị ảnh hưởng bởi các bộ phim truyền hình về y khoa, đã góp phần đáng kể vào vấn đề AMR.

“Thật không may, đó thực sự là một vấn đề nghiêm trọng, và bạn biết đấy, nó trở nên tồi tệ hơn do truyền hình khi mà mọi người thấy ai đó mắc bệnh hiếm gặp X trên Chương trình Bác sĩ, rồi họ được kê kháng sinh Y”, bà nói. “Bạn biết đấy, đó là truyền hình. Điều tạo nên chương trình truyền hình hay và điều tạo nên dịch vụ chăm sóc tốt thực sự là khác nhau”.

Tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe tốt hơn có thể giúp làm chậm AMR

Theo Tiến sĩ Nachman, tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe tốt hơn đóng vai trò quan trọng trong việc giải quyết các bệnh kháng thuốc kháng sinh.

Trước tiên, bà khuyên bạn nên từ bỏ các Trung tâm Chăm sóc Sức khỏe Khẩn cấp hoặc Trung tâm Không cần hẹn trước và thay vào đó, nên đến gặp bác sĩ thường xuyên hơn.

“Bác sĩ cần phải biết bạn là ai, bạn đã dùng loại thuốc gì gần đây và cũng nên lưu ý rằng, bạn bị bệnh không có nghĩa là thuốc kháng sinh sẽ giúp bạn khỏe hơn,” Tiến sĩ Nachman nói.

Thứ hai, bà cho biết, cần có loại kháng sinh tốt hơn, có mục tiêu cụ thể hơn, đặc biệt là kháng sinh chống lại vi khuẩn Staphylococcus aureus kháng methicillin (MRSA), loại vi khuẩn đang gia tăng nhanh chóng ở Hoa Kỳ.

“Loại vi khuẩn này nằm trong cộng đồng. Nó không phải là tác nhân gây bệnh trong bệnh viện, không giống như những gì mọi người từng nghĩ trước đây, Ôi trời, bạn bị nhiễm nó trong bệnh viện rồi.’ Không, nó nằm trong cộng đồng của chúng ta”, Tiến sĩ Nachman cho biết. “Với loại nhiễm trùng da, bạn sẽ được dùng một loại kháng sinh thông thường, nhưng nếu bạn bị MRSA và tôi không xét nghiệm cho bạn, thì bây giờ bạn sẽ càng kháng thuốc hơn nữa.”

Bà lưu ý rằng, cũng cần có phạm vi điều trị MRSA nội trú và ngoại trú tốt hơn, không giống như thuốc vancomycin, loại thuốc cần đạt nồng độ đáy (nồng độ thuốc thấp nhất trong máu) và có thể gây độc cho thận.

Theo Tiến sĩ Nachman, đối với những bệnh nhân mắc nhiều bệnh đi kèm thì cần phải được dùng loại kháng sinh không tương tác với các loại thuốc khác của họ.

“Nói tóm lại là, vâng, chúng ta cần phải khám phá,” bà nói. “Chúng ta cần nhiều loại kháng sinh tốt hơn và khác biệt hơn, nhưng chúng ta cũng cần phải rất thông minh trong việc sử dụng những loại kháng sinh hiện tại mà chúng ta đang có, chứ không phải chỉ tùy tiện đưa chúng cho bệnh nhân”.