Theo ước tính, người trưởng thành thuộc cộng đồng LGBT có nguy cơ tự tử cao gấp 2,2 lần và nguy cơ tự gây tổn thương cao gấp 2,5 lần so với người dị tính.

dau kho
(Ảnh minh họa: Shutterstock)

Những người đồng tính nữ, đồng tính nam hoặc thuộc một xu hướng tình dục khác (LGBT+) có nguy cơ tự gây tổn thương hoặc tự tử cao hơn so với những người tự nhận mình là dị tính, theo số liệu mới được công bố.

Những phát hiện này là một phần trong phân tích mới của Văn phòng Thống kê Quốc gia Vương quốc Anh (ONS) lần đầu tiên tìm hiểu về hành vi tự gây tổn thương và tự tử (theo ước tính) thay đổi theo xu hướng tình dục.

Kết quả cho thấy:

  • Tỷ lệ hành vi tự gây tổn thương có chủ ý ở người trưởng thành LGBT là 1.508,9 so với 598,4 (tính trên 100.000 người) ở nhóm dị tính. Nguy cơ này cao nhất ở nữ giới, người trưởng thành trẻ tuổi (đặc biệt là với độ tuổi 16- 24) và nhóm sắc tộc da đen.
  • Tỷ lệ tự tử ở người trưởng thành LGBT là 50,3 so với 23,1 (tính trên 100.000 người) ở nhóm dị tính. Nguy cơ này cao nhất ở nữ giới, người lớn tuổi và nhóm sắc tộc da đen.
  • Nam giới xác định là LGBT có nguy cơ tự gây tổn thương cao hơn 1,9 lần và nguy cơ  tự tử cao hơn 1,8 lần.
  • Người Châu Á thuộc nhóm LGBT có nguy cơ tự gây tổn thương cao hơn 2,3 lần và nguy cơ tự tử cao hơn 2,2 lần.

Tác giả nghiên cứu cho biết: “Mỗi sự ra đi do tự tử đều là một bi kịch và để lại tác động tàn khốc đối với gia đình, bạn bè và cộng đồng. Chúng tôi hy vọng phân tích ngày hôm nay sẽ cung cấp những thông tin chi tiết hữu ích cho những ai đang quan tâm đến công tác phòng ngừa hành vi tự gây tổn thương và tự tử”.

Văn phòng Thống kê Quốc gia Vương quốc Anh lưu ý rằng, cơ quan này “không thể xác định” được vì sao tỷ lệ tự gây tổn thương có chủ ý và tự tử ở những người LGBT lại khác biệt so với nhóm dị tính, đồng thời nhấn mạnh rằng “không thể khẳng định rằng, xu hướng tình dục có phải là một yếu tố nguy cơ gây ra hành vi tự gây tổn thương có chủ ý hoặc tự tử hay không”.

Nhiều nghiên cứu trước đó cho thấy những người thuộc giới LGBT phải đối mặt với nguy cơ sức khỏe tâm thần cao hơn đáng kể, như chứng phiền muộn giới tính, trầm cảm, lo âu, rối loạn stress hậu sang chấn. Đây có thể là một trong những lý do dẫn đến những hành vi tiêu cực.

Việc thay đổi giới tính và xu hướng tình dục có thể chịu tác động từ những trải nghiệm tuổi thơ không tốt đẹp như bị bỏ rơi, lạm dụng tình dục, thiếu vắng hình mẫu cha mẹ,… 

Trong nhiều trường hợp, các liệu pháp tâm lý chữa lành vết thương nội tâm hay tập luyện thân – tâm như yoga, thiền, khí công có thể giúp những người LGBT hiểu được nguyên nhân sâu xa dẫn đến hành vi tiêu cực và tự điều chỉnh.

Nguyên Khang (t/h)