Có lẽ hai câu ca dao sau đây được sáng tác trong tình hình đặc thù phía Nam, vùng đồng bằng sông Đồng Nai và sông Cửu Long thời khai hoang lập ấp.

Ra đi, gặp vịt cũng lùa,
Gặp duyên cũng kết gặp chùa cũng tụ.
Đó giận đây, đây chẳng có lo
Cầu gẫy, còn đò; giếng cạn, còn sông.

Nơi đất mới, thấy chuyện gì chưa quen thì tìm cách thích ứng, thí dụ như kỹ thuật canh tác nơi đất giồng, đất bưng. Gặp ai, cũng sẵn sàng làm quen. Nghe nói chuyện lạ thì lắng nghe. Để rồi lần hồi, ta gạn lọc, sống với tình huống cụ thể. Không quá khích, sẵn sàng đón nhận mọi phong cách của người lân cận. Lúc túng thiếu, bị phản bội, chẳng nao núng vì cuộc sống chưa hẳn bế tắc. Dời chỗ ở, tìm sinh kế khác biết đâu lại gặp cơ hội phát tài hơn. Người bạn này không chơi với ta, hiểu lầm ta thì hơi đâu mà giận, trên đường đời, còn bao nhiêu cơ hội kết bạn, miễn là ta sống trong sáng, rộng lượng không ác ý. Mọi chướng ngại chỉ là tạm thời, chân trời phía trước còn khá rộng.

Cái vốn lớn của người phía Nam là tích lũy được truyền thống lạc quan về đạo đức của người Việt, từ sông Hồng, sông Mã, sông Hương, sông Thu Bồn… Tình hình đất đai, khí hậu, nhất là vị trí địa lý đã là yếu tố quyết định nét đặc thù của sinh hoạt xã hội.

Trong bước đầu, làng xóm thưa thớt, người dân dễ chọn lựa chỗ ở, dễ đổi vùng, tùy thích; làng mạc chẳng có lũy tre. Ràng buộc phong kiến quá lỏng lẻo. Bỏ làng để đi đến nơi rừng hoang xứ lạ, hoặc trở ngược lên, Sài Gòn là hành động “giang hồ” được luân lý tán thưởng. Ta nhớ thời chúa Nguyễn, người lưu dân tha hồ canh tác, thâu hoạch trước rồi sẽ đăng ký chịu thuế sau, đất ruộng tuy ở nơi này nhưng người dân có thể đóng thuế ở nơi khác, thuận lợi hơn: Sông Cửu Long đón nhận cá tôm đủ loại như ở Biển Hồ trên Campuchia, người dân hai bên biên giới qua lại dễ dàng, từ khi mở nước.

Dân cư gom đa số người mà sử gia phong kiến gọi là lưu dân, theo nghĩa xấu, nhưng khách quan mà xét, đây là đa số người tốt, chống sự bóc lột thái quá của vua chúa. Họ tìm đất mới, gặp xóm người dân tộc Khơme, những quần cư sống thu mình, thâm canh trên đất giống cao ráo, giữa tứ bề cọp và sấu. Nét đặc trưng của dân Việt là từ bỏ tập quán thâm canh của miền Trung, để bày ra việc quảng canh, nhàn rỗi hơn, ít tốn công vun quên từng gốc mạ, từng thửa ruộng. Vì vậy, họ phá rừng tràm, đối phó với cọp, với sấu, với rắn độc, thêm bệnh sốt rét. Lưu dân người Hoa, gồm đa số nông dân từ miền Nam Trung Hoa đến, được người Việt đón nhận, với vòng tay mở rộng. Miền Nam là nơi dung thân của kẻ chạy đổi. Một số người Pháp đến Sài Gòn hồi thời thực dân vốn là nông dân hoặc công chức nghèo, từ chính quốc đi tìm vận hội. Thêm người Ấn, từ vùng biển Ấn Độ, chẳng khá giả gì hơn. Lại còn số người Việt bị cưỡng bức vào Nam làm phu cao su, họ bỏ đồn điền, đến nơi thị tứ để phát huy sở trường và làm nghề thủ công. Thời Minh Mạng, khá đông tù phạm từ Bắc, Trung đưa vào; họ giữ thái độ bất khuất, chống đối nhà Nguyễn. Vụ Lê Văn Khôi là cuộc khởi binh mang tầm cỡ lớn.

“Bà con xa không bằng láng giềng gần”. Người quen thân, khác dòng họ, khúc quê xứ được gọi là “bà quen”, bà con có khi còn hơn ruột thịt, nhưng là người quen thân khác dòng họ. Người thuở buổi đầu khẩn hoang, chẳng ai biết ông nội, ông ngoại mình tên họ là gì, quê quán xứ nào. Chẳng có kẻ nào “trâm anh thế phiệt” đến đất lạ để khẩn hoang. Cùng một lứa, phương trời lận dân. Bởi vậy, chẳng câu nệ nguồn gốc, dòng họ; đối xử ngang hàng. Kẻ đang giàu sang, chẳng qua là gặp cơ hội tốt, chưa hẳn là có tài. Kẻ nghèo túng, chẳng qua là lêu lổng, vụng tính toán. Rất ghét kẻ khệ nệ, quan cách. Làm dân sướng hơn làm quan. Muốn trở thành sang trọng, phải chờ thế hệ thứ hai, thứ ba. Lắm người hãnh diện với cái nghèo, giữ thói quen cũ: giàu nứt vách nhưng ăn mắm vì ngại ăn thịt nhiều, sanh bệnh. Làm phủ, làm huyện nhưng thích rủ ren bạn bè đánh bài tứ sắc. Trong ngôn ngữ thời trước, để diễn tả khái niệm bình đẳng của phương Tây, ta đã có từ riêng: “ăn ở đúng điệu nghệ, theo luật giang hồ” sau một thứ kỷ luật riêng như ngày nay khi có tàu đi biển bị đắm thì tàu của nước khác phải đến cứu cấp. Bạn bè thất thế, thậm chí người dưng nước lã, vẫn giúp đỡ, nuôi nấng, thi ơn bất cầu báo. “Phú quí sinh lễ nghĩa”, chưa hẳn vậy. Người nghèo vẫn giữ luật giang hồ, hào phóng đến mức tối đa. Xứ được thiên nhiên vụ đãi: mãn năm, mặc một kiểu quần áo, ăn rau luộc cá kho; nhà đột, vách trống vẫn không chết như trường hợp xứ mùa đông băng giá. Hôm nay vui thì ăn xài xả láng; ngày mai, sẽ tính toán. Thích giao thiệp, thích đám đông, ham đọc báo, ham xem cải lương, bóng đá. Ký giả dám viết bài bênh vực cho nghĩa lớn, nghệ sĩ hát mùi mẫn, cầu thủ xuất sắc được ca ngợi, bất chấp nguồn gốc, tôn giáo. Thời giặc xâm chiếm, tuy khác chính kiến, vẫn thán phục người “làm quốc sự”. Tình dân tộc đậm đà. […] Một người Pháp, từng là chủ khách sạn Continental ở Sài Gòn đã nhận xét trong thiên hồi ký: Sai lầm của người Mỹ là việc oanh tạc Bắc Việt, khiến người Sài Gòn căm phẫn. Người Mỹ quên rằng người ở Sài Gòn tuy sống trong chế độ khác nhưng Nam Bắc vẫn là con của một cha, một cội nguồn.

“Gặp chùa cũng tu”, tu theo đạo gì? Xin trả lời là đạo làm người với chữ tín, với liêm sỉ, với sự tin cậy lẫn nhau. Thắp nhang ngày giỗ, dịp giao thừa để thề nguyền làm người con xứng đáng của gia đình. Đi chùa ngày đầu tháng giêng, để đối diện với lương tâm của chính mình. Có nhiều tội ác lọt lưới của tòa án thế tục nhưng còn thần thánh, còn lương tâm là tòa án cao rộng, nghiêm minh hơn.

Thích tìm tòi, thích mới lạ, thích sáng kiến cá nhân. Bản vọng cổ và tuồng cải lương đã thay đổi từng đợt cho hợp với tình thế. Chơi bản vọng cổ, tiếng so le, nhưng phải đúng nhịp. Ca vọng cổ là trình diễn rất tự do, chấp nhận mọi phong cách, miễn là đừng trật nhịp. Điệu nhạc cá thể, không thể nào hợp ca được. Nó mãi nhắc nhở cái thiên đàng đã mất, cái thuở khẩn hoang rất gần mà đã xa.

Sơn Nam

Đăng lại từ Fanpage Thú Chơi Sách
Mời độc giả ghé thăm

Xem thêm:

Mời xem video: