Khoa bảng làng Cổ Bôn – Niềm tự hào của người dân Thanh Hóa
- Trần Hưng
- •
Cổ Bôn là ngôi làng cổ hình thành từ 2.000 năm trước, nằm ở trung tâm huyện Đông Sơn, Thanh Hóa. Làng có nhiều sĩ tử đỗ đạt và là niềm tự hào của người dân xứ Thanh: “Đông Sơn Tứ Bôn, Hoằng Hóa Lưỡng Bột”.
Cổ Bôn là nơi có phong cảnh đẹp, sĩ tử đỗ đạt cao ở xứ Thanh:
Có nơi đâu bằng phong cảnh Cổ Bôn ta
Trải bốn mùa đàn độc xướng ca
Kể trong trấn Thanh Hoa là đệ nhất.
Làng còn có tên tục là Kể Bôn, được hình thành từ thời văn hóa Đông Sơn (khoảng năm 800 TCN) với nhiều huyền tích lạ. Truyền thống khoa bảng cũng đi theo những câu ca của người làng như:
Em là con gái Kẻ Bôn
Đi bán trầu miếng, nuôi chồng đi thi
Ba năm chồng đỗ kinh kỳ
Chàng đi ngựa tía, thiếp đi võng đào.
Câu chuyện cảm động về người đỗ khai khoa cho làng
Vào đầu thế kỷ 15 thời Hậu Lê, có người họ Lưu từ vùng đất Viên Khê đến Cổ Bôn sinh sống, gia cảnh bần hàn chẳng có tài sản gì và phải làm thuê cho nhà giàu. Người này kết hôn cùng người con gái mồ côi trong làng, hai vợ chồng sinh ra người con trai là Lưu Ngạn Quang.
Cậu bé Quang còn nhỏ thì người cha chẳng may mất sớm, gia cảnh lại thêm khó khăn, người mẹ không còn cách nào khác phải vay mượn tiền kiếm sống. Cậu bé Quang phải đi ở đợ cho hết nhà này đến nhà khác, kể cả ở xa nhà để trả nợ.
Sau nhiều năm ở đợ trả được số nợ, Lưu Ngạn Quang đi làm thuê cùng mẹ. Việc làm thuê cuốc mướn rất vất vả mà thu thì được rất ít, nên Ngạn Quang thử đi buôn. Nhưng Ngạn Quang không may gặp quan tham, mất cả vốn buôn.
Vậy là Ngạn Quang quyết chí đến lớp của thầy đi học dù khi ấy đã 21 tuổi. Ban ngày cậu làm thuê, có dịp thì buôn chợ, tối đến thì chăm chỉ đèn sách.
Thầy dạy thấy Ngạn Quang quyết chí học hành mà gia cảnh cơ cực nên thương lắm, không lấy tiền học, còn dân làng thì ai cũng mến phục ý chí của chàng trai.
Có người bán nước thông cảm với gia cảnh nghèo khó và cảm phục ý chí Ngạn Quang nên quyết định gả con gái cho Lưu Ngạn Quang. Nhờ nhà vợ giúp đỡ, Lưu Ngạn Quang ổn định hơn, ban ngày đi làm, ban đêm miệt mài đèn sách.
Sau 3 năm đèn sách thì Triều đình mở khoa thi, Lưu Ngạn Quang khi ấy 24 tuổi tham gia kỳ thi và đỗ ngay Hương cống. Thi đỗ, chàng trai tạm biệt mẹ và vợ, chuẩn bị lều chõng ra Kinh thành tham dự tiếp kỳ thi Hội.
Trời không phụ lòng người, khoa thi năm 1481, Lưu Ngạn Quang vượt qua tứ trường kỳ thi Hội, vào đến kỳ thi cuối cùng là thi Đình và đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ.
Thi đỗ, Lưu Ngạn Quang vinh quy bái tổ về làng trong niềm vui vô bờ bến của dân làng Cổ Bôn, của mẹ, vợ và người thân.
Cuộc sống bần hàn chấm dứt, nhưng quãng thời gian cơ cực giúp Lưu Ngạn Quang hiểu được nỗi khổ của dân chúng. Ông làm quan vì dân, không chỉ được dân yêu quý mà còn được Triều đình tin tưởng.
Lưu Ngạn Quang làm quan chính trực, tạo phúc cho dân chúng, vì thế mà chỉ sau 1 năm ông đã giữ chức Giám sát Ngự sử, Lễ bộ Tả thị lang khi mới 25 tuổi.
Ông là người giúp dân khai phá lập ra làng Thanh Oai (huyện Thanh Trì, Hà Nội), ngôi làng có truyền thống hiếu học và nhiều người đỗ đạt.
Cuộc đời làm quan của Lưu Ngạn Quang được người dân ghi nhận qua đôi câu thơ:
Kim bảng thạch bi truyền bất hủ
Thái Sơn, Bắc Đẩu ngưỡng duy cao
Nghĩa là:
Bảng vàng bia đá truyền mãi mãi
Công người như núi Thái Sơn, như sao Bắc Đẩu.
Người thầy của 2 vị Vua

Sau Lưu Ngạn Quang, làng Cổ Bôn có Nguyễn Văn Nghi thi đỗ năm 1554 thời vua Lê Trung Tông, được chúa Trịnh Kiểm giao cho làm Hiệu lý Viện Hàn lâm.
Năm 1556, vua Lê Anh Tông lên ngôi, ông được cử làm thầy dạy học cho Vua. Sang năm 1557 thì ông được thăng chức Cấp sự hộ khoa kiêm quản lý tài chính. Sau đó, ông đổi sang làm Tả thị lang bộ Binh, Tổng ký lục chính dinh.
Năm 1580, ông làm Tả thị lang bộ Lại kiêm Đông các Học sĩ, làm việc ở điện Kinh Diên dạy học cho vua Lê Thế Tông.
Sử gia Phan Huy Chú đánh giá về ông như sau: “Ông là bậc danh nho đỗ cao, được 3 vua tri ngộ, sự nghiệp và tiếng tăm hơn cả các Nho thần đầu thời trung hưng”.
Nguyễn Văn Nghi dạy học cho 2 đời Vua, khi mất được phong Thượng thư bộ Công, gia thăng Thái bảo. Sau này có năm đại hạn lâu ngày khiến mùa màng thất bát, người dân đến cầu ở đền thờ ông và được mưa, Vua liền phong cho ông làm Phúc Thần.
Vùng đất trọng khoa bảng
Trong lịch sử khoa bảng, làng Cổ Bôn có 7 người đỗ đại khoa được lưu danh, ngoài ra còn có nhiều người đỗ Hương cống, cử nhân, tú tài, trở thành chiếc nôi khoa bảng của vùng đất Thanh Hóa. Là nơi có truyền thống khoa bảng, thời xưa, làng duy trì lễ Triều quan và Khảo thí hàng năm vào tháng giêng.
Lễ Triều quan diễn ra vào mùng 2 tết, hội Tư Văn (gồm những người đỗ tú tài trở lên) trang phục chỉnh tề tập trung ở nhà Thánh Lễ tế Khổng Tử cùng 72 vị Thánh Hiền.
Sau đó chọn 12 vị đến tế ở gia đình là hậu thế của các vị khoa bảng tài đức có ơn với dân và được dân chúng kính trọng như: Phúc Khê Tướng công Nguyễn Văn Nghi, Thám hoa Thiều Sĩ Lâm, Hoàng Giáp Lưu Ngạn Quang, Tiến sĩ Lê Khả Trù…
Sau lễ Triều quan là lễ Khảo thí, đến ngày tết nguyên tiêu rằm tháng giêng, các gia đình có sĩ tử đang dùi mài kinh sử sẽ làm lễ cúng gia tiên. Đến chiều thì cùng góp gạo đến nhà thầy dạy làm cỗ tết gọi là “cỗ đồng môn” để cúng gia tiên nhà thầy. Buổi cúng gia tiên nhà thầy có cả học trò đang theo học và học trò cũ đã đỗ đạt.
Đến hôm sau tức ngày 16 tháng giêng, các sĩ tử tập trung ở nhà Thánh Lễ của làng để làm lễ Khảo Thí. Các bậc trưởng bối của làng sẽ ra đề, các sĩ tử làm bài xong sẽ đưa cho hội Tư Văn chấm. Việc bình xét, chấm điểm diễn ra nghiêm túc và minh bạch. Người đỗ đầu và đủ 18 tuổi trở lên sẽ được vào hội Tư Văn, lễ Khảo Thí cũng là dịp để các sĩ tử thao dợt làm quen cho các kỳ thi Hương, thi Hội, thì Đình sau này.
Trần Hưng
Xem thêm:
- Nguồn gốc dòng họ Vũ nổi danh nhờ khoa bảng
- Từ cậu bé mồ côi đến tiến sĩ khoa bảng duy nhất của Hải Hậu
Mời xem video:
Từ khóa Làng khoa bảng
