Vụ phá 53 m3 rừng pơ mu: Trả hồ sơ vụ án vì nghi còn đồng phạm
- Trần Tâm
- •
HĐXX Tòa án Quân sự Khu vực I (Quân khu 5) quyết định trả hồ sơ vụ án phá rừng pơ mu ở Quảng Nam để điều tra bổ sung vì có căn cứ cho rằng còn có đồng phạm trong vụ án.
Chiều ngày 21/1, HĐXX Tòa án Quân sự Khu vực I (Quân khu 5) quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung trong vụ án Lê Xuân Chính – nguyên phó Đồn Biên phòng kiêm trạm trưởng Trạm Kiểm soát Biên phòng Cửa khẩu Nam Giang (huyện Nam Giang, tỉnh Quảng Nam), cùng 20 đồng phạm bị truy tố về tội “Vi phạm các quy định về khai thác, bảo vệ rừng“.
Tòa trả hồ sơ để điều tra bổ sung vì có căn cứ về việc có đồng phạm khác trong vụ án này. Tại phiên tòa này, VKS cũng có đề nghị tòa trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
HĐXX quyết định trả hồ sơ cho Viện Kiểm sát Quân sự Khu vực 2 Bộ đội Biên phòng để làm rõ 3 vấn đề:
- Bị cáo Nguyễn Văn Quang (thợ chuyên vào rừng tìm gỗ) khai Nguyễn Văn Thuận (người làm công cho xưởng gỗ của Tiêu Văn Tư tại huyện Đắc Chưng, Lào) biết việc khai thác gỗ trái phép của Chính, cần làm rõ vai trò đồng phạm của Thuận trong vụ án.
- Trong biên bản đối chất ngày 18/7/2017, Quang khai khu vực có gỗ pơ mu nằm ở biên giới Việt – Lào nhưng điều tra viên bảo bị cáo khai lại là khu vực có gỗ pơ mu nằm sâu ở bên đất Lào để nhẹ tội cho Chính, cần làm rõ có việc này hay không.
- Theo biên bản làm việc giữa Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Quảng Nam và Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Sê Kông (Lào) xác định, số gỗ pơ mu bị chặt hạ trên lãnh thổ Việt Nam là 35 cây, có sự mâu thuẫn với biên bản khám nghiệm hiện trường ngày 28/7/2016 xác định có 41 cây, cần khám nghiệm xác định lại cho chính xác.
Theo cáo trạng, bị cáo Chính có quan hệ thân thiết với Tiêu Hồng Tư – Giám đốc công ty cổ phần Minh Hà (Đà Nẵng).
Cuối tháng 3/2016, Chính chở Nguyễn Văn Quang (thợ chuyên vào rừng tìm gỗ) sang xưởng gỗ của Tư tại huyện Đắk Chưng (Lào) với mục đích bàn bạc, tìm kiếm khu vực rừng có gỗ pơ mu, thông đỏ, dổi để khai thác cho Chính và Tư.
Đầu tháng 5/2016, Quang rủ các bị cáo Thắng, Dương, Diêu, Châu, Cường vào bốc gỗ tại cửa khẩu Nam Giang và đi theo đường công vụ Biên phòng tới khu vực có gỗ pơ mu.
Sau đó, Quang mô tả cho Chính biết vị trí khu rừng cách cửa khẩu khoảng một giờ đi bộ, ở bên trái cách đường công vụ khoảng 200-300 m, số lượng khoảng 100 m3 gỗ tròn, khoảng từ 40 đến 50 m3 gỗ xẻ. Chính đồng ý cho khai thác.
Tiếp đó, Chính bàn và thống nhất với Quang về chi phí vận chuyển gỗ xẻ thành phách từ rừng ra đến đường rồi chuyển lên xe với giá 8 triệu/m3.
Thống nhất giá cả, Quang thuê hàng chục người ở Quảng Bình vào khai thác gỗ với công chặt và vận chuyển ra đường là 5 triệu/m3. Thời gian khai thác từ 4h chiều đến 9h tối với lý do “Khu vực cửa khẩu có người qua lại nhiều vào ban ngày, phải làm cho tế nhị, đừng cho người ta biết không hay”.
Toàn bộ số gỗ chặt được, các công nhân gửi tại Chi cục Hải quan cửa khẩu Nam Giang. Tuy nhiên, nhân viên tại đây không cho gửi vì phát hiện gỗ trái phép nên yêu cầu đưa đi nơi khác. Sau đó, toàn bộ số gỗ được đem đi cất giấu.
Đến ngày 7-8/7/2016, lực lượng kiểm lâm đã phát hiện được vụ việc, Chính điện cho Quang chỉ đạo các đối tượng trong nhóm vận chuyển gỗ rời khỏi hiện trường đi về quê. Chính cũng chỉ đạo Quang thay đổi điện thoại và yêu cầu phải trốn sang Lào. Chính nói “Tình hình rất căng, không được ở nhà mà phải trốn sang Lào gấp”.
Theo cơ quan chức năng, sau vụ chặt phá rừng, có 41 gốc cây gỗ pơ mu bị cưa xẻ với khối lượng là 53,123 m3, giá trị thiệt hại ước tính 3,2 tỷ đồng.
Đại diện VKS trước đó đã đề nghị tuyên phạt bị cáo Chính, Quang từ 30-42 tháng tù, bị cáo Tư từ 30-36 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, 18 bị cáo còn lại bị đề nghị xử phạt từ 24-30 tháng tù, trong đó 15 bị cáo có nhiệm vụ khai thác, vận chuyển gỗ thuê được đề nghị cho hưởng án treo. Ngoài ra, các bị cáo phải bồi thường thiệt hại hơn 3,2 tỷ đồng. |
Trần Tâm
Xem thêm:
Từ khóa Quảng Nam chặt phá rừng pơ mu Lê Xuân Chính