Các nhà văn đã tốn nhiều giấy mực để khảo sát những vấn đề liên quan đến các ngôi đình tại xã thôn. Nào sự cúng tế, khao vọng, nào hương tục, nào thể lệ cải lương…, biết bao nhiêu việc đã khiến người ta nhắc nhở đến chốn đình trung. Kẻ trí thức lại không ngại bàn đến việc bãi bỏ các ngôi đình, để dùng làm trụ sở hành chính hay chuyên môn… Hơn nữa, hiện nay, nhiều trường tiểu học và nhất là hương học đã được đặt ở ngay các đình làng. Bởi vậy, thiết tưởng ta cũng nên hiểu biết nguyên do của các công trình kiến trúc cổ kính kia…

L.T.S.

Mái Đình làng Việt
(Ảnh: Facebook Hiếu Trần)

Lược khảo về đình ở Bắc Việt

Ở nước Việt Nam, làng là tổ chức căn bản quốc gia.

Làng ở Việt Nam cũng giống như làng ở các nước, là một nhóm người tụ họp cùng nhau, chung sống cùng nhau, trong một khoảng đất rộng hẹp tùy nơi, để mưu việc làm ăn sinh sống cho được thuận tiện, và để luật lệ của Chính phủ ban bố được thi hành dễ dàng.

Làng ở nước ta chỉ khác làng ở các nơi ở chỗ thêm có những dây liên lạc tinh thần, kết nhóm người ấy thành một khối chặt chẽ.

Một trong những dây liên lạc mật thiết ấy là ngôi đình, và việc thờ cúng ở đình một vị thần chung cho toàn dân: vị thần thành hoàng. Vì lòng tôn kính, dân thường xưng hô vị thần là đức thánh, đức đại vương.

Dân tộc ta là một dân tộc giàu lòng tin ngưỡng, và thờ cúng các vị thần, từ các vị hung đến các vị thiện; vị nào ta cũng tin là có ảnh hưởng đến đời sống của người cho nên vị nào ta cũng thờ.

Những nơi ta lập ra để thờ cúng các vị thần thì nhiều lắm; chỗ nào cũng có: trong làng, ngoài đồng, vệ đường, gốc cây, bờ sông, chân núi; to nhỏ đủ hạng, từ những đền đài đồ sộ nguy nga, cây cối um tùm, sân vườn rộng rãi, cho chí một bệ gạch, xây ngay bên đường, một cái bàn đặt trong hốc cây. Nhưng không nơi nào được dân làng quyến luyến và tôn kính bằng ngôi đình.

Đình không những là nơi thường trực của vị thần thành hoàng, là nơi dân làng cử hành những lễ nghi thờ cúng vị thần; đình còn là nơi tập trung đời sinh sống của toàn dân; là nơi dân làng hội họp để giải quyết mọi vấn đề hành chính, tư pháp, nói tóm lại, tất cả những vấn đề có liên quan mật thiết đến vận mệnh của toàn dân. Vì thế mà đình, dù to dù nhỏ vẫn được dân làng coi là chốn tôn nghiêm. Ai bước chân vào đình cũng phải chít khăn, mặc áo chỉnh tề và có lòng kính cẩn, trai khiết. Những người “uế tạp”, như đã ăn hành, ăn tỏi, những người có tang chế, đều không được vào đình, không dám vào đình. Những người vì công việc làm ăn phải đi xa làng lúc nào cũng tưởng nhớ đến làng, đến đình; dù nghèo dù giàu, vẫn lo lắng gửi tiền về đóng góp với làng, gửi lễ vật về cúng thần. Mỗi khi họ về được làng, điều thứ nhất là sắm sửa lễ vật đem ra đình làm lễ.

Đình có từ bao giờ? Mà sao lại gọi là đình?

Chữ đình không sách nào có nghĩa là nơi thờ cúng, mà chỉ có nghĩa là nơi dừng lại, nơi nghỉ chân. Duy chỉ nước Việt Nam ta có đình là nơi thờ cúng, mà là nơi thờ cúng vị thần thành hoàng; còn không nước nào có, kể cả nước Tàu, là nước ta đã chịu ảnh hưởng văn hóa đã mấy ngàn năm.

Ta hãy cùng nhau tìm một giả thuyết.

Xưa kia, nhà vua, tuy có cung điện để thiết triều, xét xử việc nước, nhưng thường đi tuần du các nơi, đến tận các làng để xem xét tình hình dân chúng, săn sóc dân chúng, khuyên bảo dân chúng. Mỗi cuộc tuần du như thế kéo dài hàng tháng hàng năm, có các quan và lính tráng đi hộ giá. Để có chỗ vua dừng lại ở nghỉ ngơi và làm việc, mỗi làng làm một tòa nhà khá to rộng để đón rước vua. Tòa nhà đó gọi là đình, là nơi nhà vua dừng lại, nghỉ lại. Về sau, nước càng mở rộng, công việc trị dân mỗi ngày phiền phức hơn, nhà vua không thể đi tuần du như trước nữa; thành thử ngôi đình làm ra để đón vua, phải bỏ không.

Về phần dân, đã quen được nhà vua trông nom săn sóc, không được vua tiếp xúc đến nữa, lòng không khỏi hoang mang, sao nhãng, mà vì đấy dễ sinh làm điều bất chính bất trung. Để phòng ngừa mọi việc không hay, và nhân thấy dân chúng thờ lắm vị thần, cả những vị không chính đáng, nhà vua bèn nghĩ đến chỉnh đốn việc thờ cúng của dân, cho dân chọn lấy vị thần địa phương tôn lên làm thần thành hoàng, và cho dân lấy ngôi đình bỏ không kia làm nơi tế tự.

Chính sách ấy là một chính sách rất mầu nhiệm để giữ dân; vắng vua thì đã có thần, thường trú ở đình, để trông nom săn sóc dân; dân đã có thần phù hộ độ trì, có thể an cư lạc nghiệp. Lòng tín ngưỡng của dân lại được thỏa mãn; thật là lưỡng lợi.

Từ đấy, đình thành ra nơi tế tự chung của dân làng; vị thần tôn thờ ở đình được dân quý trọng, mến phục như vua vậy. Lễ nghi tế thần cũng phỏng theo lễ nghi triều đình: khi tế lễ thần, quan viên cũng mũ áo, hia ủng như các quan chầu vua; trai tráng cũng mặc nhung phục, cầm vũ khí như lính thị vệ đứng hầu vua khi thiết triều. Những tự khí ở đình, như kiệu, võng, tàn quạt, cờ biển, lỗ bộ, bát bửu, cũng là những đồ phỏng theo các đồ bài trí trong cung điện nhà vua. Nhà vua dùng cờ mao tiết để biểu hiệu uy quyền, thì dân cũng biểu hiệu thần quyền bằng cờ mao tiết.

Trên đây chỉ là một giả thuyết; không khỏi có người cho là giả thuyết táo bạo.

Nhưng chúng tôi còn nhận thấy điều này nữa, nó phù hợp với các điều đã kể trên, để củng cố thuyết ngôi đình là nơi vua dừng chân, vua nghỉ, thành ngôi đình là nơi thờ thần thành hoàng.

Trong đình nào ta cũng thấy một bức hoành phi treo gian giữa, ngay trên ban thờ thần. Hoành phi sơn son thiếp vàng, khắc bốn chữ “Thánh cung vạn tuế” (聖恭萬歲).

Bốn chữ này là câu khẩu hiệu mà dân chúng đồng thanh hô to để hoan hô nhà vua khi nhà vua tới, hay là khắc vào biển để thờ vọng nhà vua, khi nhà vua vắng, mà cũng chỉ được dùng đối với nhà vua thôi. Thế mà ngày nay, vua không đến làng nữa, biển khắc bốn chữ ấy vẫn còn thấy ở đình để thờ thần, nghĩa là vị được vua phong cho làm thành hoàng, để thay mặt vua, trông nom coi sóc dân. Dân coi vua là thiên tử, là đứng thụ thiên vĩnh mệnh, để chăn nuôi dân; dân tôn trọng thần cũng như vua; vì thế mà dân nói đến vị thần, thường dùng tiếng “đức đại vương”, “đức thánh”, và thường ví hương đảng là tiểu triều đình. Không một vị thần nào được dân tôn trọng bằng vị thần thành hoàng. “Thần thành hoàng trông nom săn sóc dân, về mặt tinh thần, cũng như các nhà cầm quyền trông nom dân về vật chất. Ngài là vị đại diện của Ngọc Hoàng thượng đế; Ngài là tiêu biểu rõ rệt tất cả những kỷ niệm chung, những nguyện vọng chung của dân; Ngài là tôn chỉ, là mẫu mực, là luân thường đạo lý; Ngài còn là một uy quyền tối cao để thưởng người hay và để phạt kẻ dở. Trong dân làng ai theo đúng tôn chỉ, mẫu mực của Ngài, thì Ngài phù hộ độ trì cho, ai ăn ở trái thì Ngài phạt. Nói tóm lại, Ngài tiêu biểu một uy quyền tối cao, mà cái uy quyền ấy thì gốc ở lòng dân. Ngài là sợi dây liên lạc, ràng buộc mọi người trong dân xã cùng nhau, kết thành một khối, thành một cá nhân luân lý (vô hình), mà bao nhiêu đặc tính đều ở trong mọi người”.

Giả thuyết trên đây chúng tôi lập ra là căn cứ vào những điều trông thấy và suy luận.

Nay ta xem đình là thế nào, kiến trúc ra sao, và có những gì, mà cũng chỉ nói về đình ở trung châu Bắc Việt thôi.

Đình là một tòa nhà rộng rãi, có đủ chỗ để bày bàn thờ thần, chứa tự khí, và để dân làng hội họp khi có tế lễ, hay có việc công. Đình thường lập lên xa nơi nhà ở, và xây hình chữ “thượng”, viết theo lối cổ văn; có người gọi nôm là hình chuôi vồ. Nhà dọc là nơi đặt ban thờ, gọi là cung cấm; nhà ngang là nơi hội họp, gọi là đình trong; cách một cái sân hẹp đến một ngôi nhà nữa, chạy dài song song với đình trong, gọi là tiền tế. Khi tế thần, hương chức đứng ở ngôi nhà này.

Sau đến hai dãy nhà chạy dọc, làm hai bên sân trước tiền tế, độ 5, 7 gian, hay dài hơn, tùy đình to nhỏ, gọi là hành lang, hay tả vu hữu vu, để làm nơi sửa soạn đồ cúng tế, làm thịt trâu, thịt bò, làm gà, làm lợn, thổi xôi, nấu cơm, đặt cỗ bàn để ăn ở đình, đều là các công việc sửa soạn ở đấy.

Ngoài cùng sân, từ đầu hồi hành lang bên này sang đầu hồi hành lang bên kia, thì xây hoặc một cửa tam quan, hoặc hai hay bốn cột trụ, có tường xây kín, trừ khoảng giữa để làm cửa; cửa này thường để mở.

Trong cung cấm là nơi thờ thần, có tượng, ngai hay ỷ, phủ vóc lụa điều, trên đặt mũ miện, dưới đặt đôi hia. Một cái hộp sơn son thiếp vàng đựng những sắc nhà vua phong cho thần, gọi là hòm sắc, cũng bày ở đấy, ngay trước tượng hay ngai, để biểu hiệu Ngai. Cung cấm ngày thường đóng kín, chỉ những ngày lễ mới mở cửa thông ra gian ngoài. Chỉ mình ông cai đám, hay thủ từ, được vào cung này; cho nên gọi là cung cấm.

Ở đình trong, nơi gian giữa, ngay chỗ cung cấm ra, thì đặt những hương án, bằng gỗ chạm trổ, sơn son thếp vàng, trên bày nào là bình hương, đèn nến, đài rượu, lọ hoa, v.v., hai bên cắm những lọng, tàn, tán, cờ, quạt, lỗ bộ, bát bửu, v.v.

Những gian hai bên có bệ xây gạch hay bục đóng ván, cao hơn mặt đất độ 50, 60 phân. Bệ hay bục giải chiếu là nơi các bô lão và quan viên ngồi, trong những ngày tế lễ hay hội họp.

Ở tiền tế, thì gian giữa là nơi quan viên đứng tế; hai bên bệ dùng làm nơi dân làng hội họp khi có việc làng đại lệ.

Đình thờ vị dương thần, thường có một cỗ ngựa bằng gỗ hoặc sơn đỏ (ngựa hồng), hoặc sơn trắng (ngựa bạch), to bằng ngựa thật, đặt trên một cái khung hình chữ nhật có bốn bánh xe cũng bằng gỗ. Ngựa này để hoặc ở trong đình, hoặc trong một cái nhà con gần đấy gọi là tầu ngựa.

Đình thờ vị âm thần, thường không có ngựa, nhưng có võng, kết bằng sợi gai nhuộm đỏ, gọi là võng đào. Võng mắc vào một đòn chạm đầu rồng đuôi tôm, đặt lên hai cỗ đòn ba chân, trên trùm một mái hình mai luyện, đan bằng mây hay bằng tre.

Ngày đại hội, ngựa thắng yên cương, bàn đạp, thật là đẹp đẽ; võng thì căng riềm lụa, mành hoa. Lúc rước thần, thì kiệu đi trước, ngựa hay võng đi sau; ngựa kéo bằng dây tơ đào; mà võng thì thiếu nữ khiêng.

Kiệu là một tự khí cốt yếu, làm hình cái ngai, bằng gỗ chạm trổ và sơn thếp. Khiêng kiệu thì phải 8, 10 hay 12 người. Lúc khiêng thì phải đặt kiệu lên trên một bộ đòn bằng gỗ chạm đầu rồng đuôi tôm, cũng sơn son thếp vàng. Rước thần bao giờ cũng phải có kiệu.

Nói đến rước, thì ta lại phải nói đến một nơi thờ nữa, có thể cho là nơi đi đôi với đình: ấy là cái nghè.

Nguyên ủy cái nghè thế nào thì chưa thấy sách nào nói tới. Nghè là nơi hằng năm dân rước thần ra đấy để làm lễ; nghè là một nền đất có lối đi dễ dàng và đắp cao hơn chung quanh, để ngày mưa khỏi bị ngập, có cỏ mọc và trồng cây to, nhưng trồng hoa màu thì cấm hẳn. Có làng xây trên nghè một ban thờ lộ thiên: khi rước đến nghè thì dân tế thần trên ban thờ ấy; nhưng phần đông thì không xây gì cả, khi rước đến nghè, tế thần ngay trên kiệu. Tế xong lại rước kiệu về đình. Trong nhiều vùng ở Bắc Việt, như là vùng Hà Đông và Hưng Yên, không có nghè ở ngoài đồng và lộ thiên như trên, nhưng có một ngôi đền nhỏ lập ngay trong làng, cũng gọi là nghè. Khi rước thần, thì đám rước đi từ đình đến đền, xong lại từ đền về đình. Mỗi khi có việc cúng thần không quan trọng mấy, thì dân cũng cúng ngay ở đền này.

Các vị thần thành hoàng

Thần thành hoàng làng, có vị là thiên thần như đức Tản Viên sơn thần ở tỉnh Sơn Tây, các làng Nhân Lý, Tiến Tiên, thuộc huyện Chương Mỹ, Hà Đông đều thờ; như vua Đế Thích, có những làng La Tràng thuộc huyện Ân Thi, Hưng Yên, và làng Nhật Tảo thuộc huyện Hưng Nhân, Thái Bình thờ; có vị là nhân thần (cũng gọi là phúc thần nữa) nghĩa là một người có công đức to, hay gặp một cơ hội nào, mà khi mất được dân chúng tôn thờ, như ông Lý Ông Trọng, được làng Thụy Phương thuộc huyện Từ Liêm, Hà Đông thờ, anh em đức Trương Hồng Trương Hát được làng Nội Duệ đông, thuộc huyện Tiên Du và làng Đỗ Xá, huyện Võ Giang Bắc Ninh thờ.

Một vị quan đã có công đức to với một làng nào, có thể được làng ấy thờ làm thành hoàng; có người lại được thờ từ lúc còn sống, như cụ Nguyễn Cần, Tuần phủ tri sự, người làng Du Lâm thuộc phủ Từ Sơn Bắc Ninh, vì cụ đã có công lập ra làng Đông Lâm, thuộc huyện Đông Triều, Hải Dương, khi cụ đang làm Bố Chính tỉnh Lục Nam ngày xưa. Chưa có sắc thần thì dân làng xin duệ hiệu hay một tấm ảnh của vị ân nhân đem về đình thờ, rồi hằng năm cúng tế. Tế xong, một phần lễ vật được đưa đến kính biếu vị “thần sống”.

Không phải chỉ những bậc vĩ nhân mới có thể được tôn thờ làm thành hoàng, mà cũng không cần đã có công nghiệp hiển hách, hay có công đức to với dân chúng, mới được làm thành hoàng. Có làng thờ thần ăn trộm, như làng Lộng Khê, thuộc huyện Phụ Dực, tỉnh Thái Bình. Có làng thờ một trẻ bé vì ăn tham nghẹn chết. Ấy là làng Đông Thôn, thuộc huyện Hoàn Long, tỉnh Hà Đông.

Trẻ bé, kẻ trộm trở nên thành hoàng được, là vì công chúng cho rằng đã chết vào giờ thiêng. Sau đây, chúng tôi sẽ kể một vài thần tích thuộc về loại này. Phần nhiều những thần tích ấy không thấy biên chép ở đâu cả, toàn là khẩu truyền. Có lẽ các làng có chép thần tích đấy, nhưng khi hỏi đến thì người ta giấu, từ chối không cho xem, hoặc nói thần tích thất lạc, hoặc nói đã lâu đời lắm, không nhớ gì cả.

Có làng thờ một hay nhiều vị thần, như làng Nội Duệ đông, thuộc huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, thờ hai anh em đức Trương Hồng, Trương Hát; làng Hát Môn, thuộc huyện Đan Phượng, tỉnh Hà Đông, thờ hai chị em bà Trưng Trắc, Trưng Nhị. Trái lại, một vị thần được nhiều làng thờ, như vua Đế Thích, được làng La Tràng, thuộc huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên, và làng Nhật Tảo, thuộc huyện Hưng Nhân, tỉnh Thái Bình thờ; thần Tản Viên cũng được nhiều làng thờ, như làng Nhân Lý, làng Tiến Tiên, thuộc huyện Chương Mỹ tỉnh Hà Đông và nhiều làng khác nữa trên ngạn sông Đuống.

Trên kia, ta đã nói có những làng như làng Đông Lâm thờ sống người đã có công to đức lớn với làng. Lại cũng có những làng mới thành lập, chưa biết thờ vị thần nào, phải xin duệ hiệu thần một làng nào đấy, đem về thờ; do đấy mà hai làng giao hiếu với nhau.

Vì lẽ đã có làng thì phải có thành hoàng, mà có thành hoàng thì phải có vật gì để biểu hiệu Ngài, nên thường làng mới lập sau, nói với làng kia cho một vài đạo sắc của vị thần làng này đem về thờ; nếu không có sắc thì làng mới sao bản thần tích đem về thờ; dân xã giữ gìn cẩn thận, cũng như tư gia giữ gia phả vậy.

Khi nhiều làng thờ chung một vị thần giao hiếu với nhau, thì mỗi làng làm lễ kỳ phúc một ngày, đây là nói ngày chính lễ, chứ thường lệ thì lễ kỳ phúc kéo dài mấy ngày liền. Ngày làng này làm lễ chính, thì những làng kia cắt cử người đến để dự lễ; có năm, làng này rước kiệu thần đến làng kia.

Cũng có những làng mới lập, như những làng lập ra trong những đồn điền bây giờ, vì một lý do gì, dân không muốn xin duệ hiệu thần làng khác về thờ, nhưng dân cũng cứ làm đình, rồi thờ vị thổ thần ở đấy.

Xem thế thì ta biết rằng khi một nhóm người đã tụ họp để chung sống cùng nhau, thì họ phải có một vị thần để phù trợ cho họ.

Được phong làm thành hoàng, các vị thần phải trông nom săn sóc cho dân xã được an ninh, được thịnh vượng, được sung sướng. Vị nào trông nom cho dân được chu đáo, thì triều đình sẽ tặng hàm phong sắc làm thượng đẳng thần, trung đẳng thần hay hạ đẳng thần. Nhà vua đặt ra nhiều hạng như thế là để có vị thần nào xét ra trễ nải công việc, như dong túng kẻ gian phi vào ẩn núp trong đình, để trong dân xã nhiều người cùng là trâu bò chết chóc, thì nhà vua giáng trật.

K.

Đăng trên Văn Hóa Nguyệt San số 3 tháng 7-1952
Theo bản scan đăng trên Nhà Kho Quán Ven Đường do Huỳnh Chiếu Đẳng sưu tập và chia sẻ (ndclnh-mytho-usa.org)

Xem thêm: