Chuyên gia cảnh báo: AI ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển của học sinh
- Brad Jones
- •
Khi hàng chục triệu học sinh trở lại trường, phụ huynh và giáo viên đang tranh luận về mức độ ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) trong giáo dục, và lo ngại sự phụ thuộc quá mức có thể mang lại những tác động tiềm ẩn nào.
Tác giả Joe Allen cho rằng hệ thống giáo dục sẽ trở thành một trong những bãi thử nghiệm chính của các thí nghiệm AI trên toàn cầu.
Ông nói với Epoch Times dù được thúc đẩy bằng cách bắt buộc hay khuyến khích, nhà trường đều sẽ trở thành bãi thử khổng lồ, để quan sát xem việc duy trì chuẩn mực văn hóa truyền thống tốt hơn, hay biến mỗi đứa trẻ thành nửa người nửa máy thì tốt hơn.
Ông Allen là tác giả cuốn “Dark Aeon: Transhumanism and the War Against Humanity” (Kỷ nguyên đen tối: Chủ nghĩa siêu nhân loại và cuộc chiến chống lại nhân loại). Ông cho biết chưa ai có thể dự đoán được tác động lâu dài của AI.
Ông so sánh, giống như những năm 1960, TV và radio bán dẫn cầm tay đã lan truyền âm nhạc và thông tin của các phong trào văn hóa phụ, tác động đến một thế hệ trẻ phá vỡ quy chuẩn của cha mẹ. Tương tự, AI có thể khiến một thế hệ trẻ quen với việc tương tác với máy móc, coi máy móc gần như con người.
Khảo sát của Wiley Network năm 2024 với 850 giáo viên cho thấy, một số giáo viên cho rằng AI gây tác động tiêu cực đến tính liêm chính học thuật. Trong số hơn 2.000 học sinh được hỏi, gần một nửa (47%) thừa nhận AI khiến gian lận dễ dàng hơn.
Ông Allen lưu ý, nhiều bài tập học sinh nộp giống nhau một cách đáng kinh ngạc, hoặc không giống văn phong của chính học sinh đó.
Sinh viên đại học cũng thừa nhận AI khiến họ “ngu đi”. Một nghiên cứu đăng trên European Research Studies Journal năm 2024 cho thấy, 83% sinh viên lo ngại AI làm suy yếu khả năng tư duy độc lập.
Khảo sát của tạp chí trực tuyến Intelligent năm 2023 với 1.000 sinh viên Mỹ cho thấy, gần 1/3 đã dùng ChatGPT để làm bài viết, gần 60% dùng ChatGPT cho hơn một nửa số bài tập. Trong số đó, 3/4 cho rằng đó là gian lận nhưng vẫn chọn sử dụng.
Trong nhiều khảo sát khác, đa số phụ huynh cũng bày tỏ lo ngại AI ảnh hưởng đến con cái.
Một nghiên cứu năm 2024 của nền tảng học trực tuyến DoodleLearning cho thấy, 80% trong số 1.000 phụ huynh có con trong độ tuổi đi học lo ngại về tác động của AI đối với giáo dục. Họ cũng lo về quyền riêng tư, an ninh dữ liệu và vấn nạn đạo văn.
Tháng 7/2024, Bộ Giáo dục Mỹ khuyến khích nhà trường dạy trẻ cách sử dụng AI một cách nghiêm túc, tận dụng công nghệ này để thực hiện học tập cá nhân hóa cho học sinh ở mọi cấp độ.
Ảnh hưởng của ChatGPT lên não bộ
Bà Shannon Kroner – nhà tâm lý học lâm sàng, kiêm chuyên gia giáo dục trị liệu với hơn 20 năm kinh nghiệm, tác giả sách thiếu nhi – cho rằng AI ảnh hưởng tiêu cực đến tư duy phản biện, đồng thời làm cả giáo viên và học sinh mất đi tính nhân văn.
Bà từng dạy sinh học trung học và nhân văn đại học, cho rằng AI đã biến việc học dựa trên mối quan hệ thầy – trò thành một giao dịch lạnh lẽo.
Bà nói với Epoch Times, AI khiến cả giáo viên và học sinh sinh ra lười tư duy, ăn mòn sự tò mò, kìm hãm phát triển nhận thức, làm giảm khả năng giải quyết vấn đề và suy luận logic. Giờ đây học sinh không cần nghiên cứu, cũng không cần tìm tài liệu để chứng minh cho quan điểm của mình.
Ngày càng nhiều giáo viên dựa vào AI để soạn giáo án, vì nó giúp công việc nhẹ nhàng hơn. Nhưng khi học sinh càng phụ thuộc vào “lời của robot”, quyền uy của giáo viên trong lớp học càng suy giảm.
Bà nói chúng ta sẽ đánh mất sự gắn kết trong tương tác thầy – trò. Với sự phổ biến của AI, học sinh sẽ có xu hướng tìm câu trả lời từ AI, khiến thảo luận giữa thầy và trò không còn quan trọng, thậm chí biến mất.
Cả ông Allen và bà Kroner đều lo ngại sự suy giảm khả năng tư duy phản biện trong lớp học.
Một nghiên cứu gần đây của MIT có tên “Ảnh hưởng của ChatGPT lên não bộ: Gánh nặng nhận thức tích tụ khi dùng AI hỗ trợ viết” đã phân tích dữ liệu thần kinh – nhận thức của 54 sinh viên (18–39 tuổi). Họ được chia làm 3 nhóm: Nhóm dùng ChatGPT, nhóm dùng Google, và nhóm chỉ dựa vào não bộ để viết bài luận.
Kết quả cho thấy người dùng ChatGPT (AI mô hình ngôn ngữ lớn) có mức độ tham gia hoạt động não thấp nhất, họ thường sao chép – dán câu trả lời.
Trong 4 tháng nghiên cứu, người dùng AI mô hình ngôn ngữ lớn cho kết quả kém hơn liên tục về mặt thần kinh, ngôn ngữ và hành vi. Kết luận cho thấy sự phụ thuộc quá mức vào AI có thể gây ảnh hưởng lâu dài đến giáo dục, và nhấn mạnh nhu cầu khám phá vai trò của AI trong việc học tập sâu hơn.
Ông Allen cho biết nhóm dùng AI hoàn toàn chán nản, trí nhớ kém, hoạt động não giảm, đặc biệt ở vùng hải mã – nơi hình thành ký ức. Ông cho biết, nghiên cứu này về cơ bản đã chứng thực rằng AI khiến con người trở nên ngu ngốc hơn. Nếu dựa vào máy móc để suy nghĩ thay cho mình, thì năng lực tư duy sẽ thoái hóa.
Vấn đề sức khỏe tâm thần và “bạn bè” trí tuệ nhân tạo
Ông Allen cho rằng, ảnh hưởng của AI đối với con người có thể phải nhiều năm sau mới bộc lộ, giống như những tác động lâu dài do chính phủ ứng phó sai lầm với dịch COVID-19.
Việc phong tỏa do COVID-19, làm việc tại nhà và học tập trực tuyến đã củng cố thêm xu hướng giảm giao tiếp trực tiếp giữa con người với nhau.
Nhiều nghiên cứu chỉ ra, việc sử dụng quá mức mạng xã hội – đặc biệt là trong giai đoạn dịch COVID-19 – là một trong những yếu tố gây ra các vấn đề sức khỏe tâm thần ở thanh thiếu niên. Bà Kroner lo ngại rằng nếu trên cơ sở này lại thêm vào AI thì vấn đề sẽ càng trở nên nghiêm trọng hơn.
Bà nói, các công ty AI đang quảng bá robot bạn bè và chatbot AI như là “người bạn đồng hành” cho trẻ em bị cách ly với bạn bè thật trong thời kỳ dịch bệnh, thậm chí hiện nay mọi người còn bắt đầu tìm đến AI để trị liệu tâm lý.
Sự phát triển của công nghệ robot hình người và việc khuyến khích trẻ em “làm bạn với AI” đã làm dấy lên những lo ngại khác. Ví dụ: Liệu những sản phẩm AI này có thể giúp giảm bớt sự cô đơn ở trẻ em nhút nhát hoặc có khó khăn trong giao tiếp xã hội, hay ngược lại sẽ khiến chúng ngày càng xa rời bạn bè đồng trang lứa và những hoạt động lành mạnh ngoài trời (như vui chơi, thể thao).
Dữ liệu từ Học viện Nhi khoa Hoa Kỳ cho thấy, ngay cả trước khi dịch COVID-19 bùng phát, số đơn thuốc chống trầm cảm cho thanh thiếu niên và thanh niên trẻ đã có xu hướng gia tăng; nhưng từ tháng 3/2020, tốc độ tăng trưởng đã vượt quá 60%.
Bà Kroner cho biết, bà lo sợ AI sẽ phá hủy sự trong sáng của tuổi thơ, bao gồm cả việc nhân cách hóa chatbot, như chatbot của X, hay nhân vật ảo “Ani”.
Bà cũng chỉ ra, việc trẻ em nhập dữ liệu cá nhân vào hệ thống AI sẽ tạo ra rủi ro đối với quyền riêng tư. Bà đặt câu hỏi ai đang thu thập tất cả những dữ liệu này? Cuối cùng những dữ liệu này có bị lợi dụng không? Và ai là người kiểm soát chúng?
Ông Allen cho biết, mặc dù “rác vào, rác ra” là một cách nói trong ngành máy tính, nhưng trường hợp của AI thì hoàn toàn khác. Trong máy tính truyền thống, “rác vào, rác ra” nghĩa là nếu bạn đưa dữ liệu sai, vô nghĩa vào hệ thống, thì máy tính cũng sẽ xuất ra kết quả sai và vô nghĩa.
Nhưng ông Allen chỉ ra, các mô hình ngôn ngữ lớn có thể xử lý tập dữ liệu hỗn hợp “rác và vàng”, từ đó sàng lọc ra thông tin hữu ích.
Ông giải thích, so với công cụ tìm kiếm truyền thống vốn chỉ như một cơ sở dữ liệu, thì AI có khả năng suy nghĩ độc lập. Khi người dùng đặt câu hỏi, nó có thể tự do khám phá các đường dẫn dữ liệu trong một phạm vi nhất định, từ đó phát hiện ra một lượng lớn thông tin hữu ích vốn có thể bị chôn vùi.
Ở một số khía cạnh, cách vận hành của AI tương tự như não người, có một mức độ tự do và ngẫu nhiên nhất định, nhưng nó hoạt động theo “một cách vô cùng xa lạ”, ông Allen nói.
AI cũng dễ phát sinh hiện tượng gọi là “ảo giác” – tức là tạo ra nội dung bịa đặt, thông tin giả hoặc gây hiểu nhầm, không dựa trên trải nghiệm cảm giác, nhưng lại được trình bày theo một cách rất thuyết phục.
Ông Allen nói, chỉ riêng tỷ lệ xảy ra ảo giác thôi cũng đủ để các bậc phụ huynh cảnh giác. Nó sẽ không trở thành một siêu thiên tài như Sam Altman hứa hẹn.
Trong các thử nghiệm của công ty, hai mô hình mới nhất 03 và 04-mini của OpenAI có tỷ lệ ảo giác lần lượt là 51% và 79%. Trong một nghiên cứu năm 2024 đánh giá việc ứng dụng AI trong ngành luật, tỷ lệ ảo giác lên tới 88%.
Ông Allen lấy ví dụ, phiên bản ChatGPT 4.5 gần đây đã loại bỏ cơ chế bảo vệ nhằm ngăn chặn một số chủ đề nhạy cảm, thậm chí hướng dẫn người dùng cách hiến tế cho Molech – một vị thần cổ đại gắn liền với nghi lễ hiến tế trẻ em.
Ngoài ra, còn có nhiều trường hợp người dùng vượt qua hàng rào bảo vệ của AI. Ví dụ gần đây nhất vào đầu tháng Bảy năm nay, chatbot Grok đã vô tình tạo ra và phát tán một loạt bài viết mang tính bài Do Thái.
Ông Allen nói công nghệ vốn có tính ngẫu nhiên nhất định, và đặc tính bất định của hệ thống đồng nghĩa với việc đằng sau các biện pháp bảo vệ thực chất luôn tiềm ẩn một “bản năng”, trong khi người dùng bình thường không cần kỹ năng quá cao, chỉ cần vài thủ thuật đơn giản là có thể vượt qua các lớp bảo vệ đó.
Bảo vệ trẻ em
Ông Allen cho biết, chỉ cần chính phủ, trường học và công ty sẵn sàng thử nghiệm công nghệ AI mà không biết kết quả sẽ ra sao, thì chúng ta đã có đầy đủ lý do để hoài nghi về việc sử dụng AI trong lớp học.
Một số giáo viên đề nghị khôi phục lại hình thức thi vấn đáp, thi viết Blue Book, hoặc dùng các trình soạn thảo văn bản bị hạn chế truy cập Internet.
Ông nói trong giai đoạn thử nghiệm ban đầu của AI, những người thực hành sẽ được hưởng lợi. Trường học có thể phát triển những hệ thống AI đã qua sàng lọc, chỉ phục vụ cho mục đích học thuật.
Ông nói đây sẽ là xu hướng trong tương lai. Ông không lo lắng rằng “AI giáo dục” sẽ mất kiểm soát và tạo ra những đoạn văn giống như tác phẩm của Marquis de Sade, nhà văn Pháp nổi tiếng thế kỷ 18.
Ông Allen nói, trong việc bảo vệ trẻ em và năng lực tư duy phản biện của chúng, tồn tại 3 trở ngại: Lựa chọn cá nhân, chính sách của tổ chức và các hành động chính trị hoặc pháp lý.
Ông nói, ở cấp độ cá nhân, các bậc cha mẹ tại Mỹ và những xã hội tương đối tự do khác sẽ phải đối mặt với câu hỏi làm sao để nuôi dạy con cái. Cha mẹ có thể lựa chọn cho con tham gia vào thí nghiệm này, hoặc lựa chọn không gửi con đến các trường học hoàn toàn số hóa hay giảng dạy kết hợp.
Ông nói, ở cấp độ tổ chức, các trường có thể chọn áp dụng toàn diện AI, hoặc triển khai hệ thống một phần hay kết hợp. Đây sẽ là những quyết định then chốt trong tương lai. Đây là một cuộc thử nghiệm, vì vậy những trường này về cơ bản sẽ trở thành nhóm đối chứng.
Hiện nay, triển vọng sử dụng hệ thống chính trị và pháp luật để hạn chế AI trong lớp học ở Mỹ không mấy khả quan, vượt ra ngoài phạm vi cấp bang, ông cho biết. Nhưng tại Mỹ và các quốc gia khác, các nhóm phụ huynh đang hình thành một làn sóng phản kháng có tổ chức.
Ví dụ, Úc đang tìm cách xây dựng các trung tâm dữ liệu lớn và mở dữ liệu của người dân Úc để huấn luyện AI, nhưng lại hạn chế việc sử dụng điện thoại thông minh trong trường học, yêu cầu mạng xã hội xác minh độ tuổi. Ông Allen cho rằng như vậy là đang đi đúng hướng.
Ông nói, trên thực tế, cả đất nước Úc đang cố gắng hết sức để hạn chế trẻ em tiếp xúc với thiết bị điện tử – từ việc cấm dùng điện thoại trong trường học đến việc giữ trẻ em hoàn toàn tránh xa các thiết bị điện tử. Vì vậy, nhóm đối chứng ở đây khá lành mạnh.
Bà Kroner dự đoán, AI sẽ khiến một số trẻ em càng nghi ngờ về quyền uy của giáo viên và cha mẹ. Bà khuyên các bậc phụ huynh nên kết hợp các ví dụ thực tế trong đời sống để hướng dẫn khi trẻ đặt câu hỏi.
Bà nói, trẻ em có thể lắng nghe và phản hồi, nhờ đó ở một mức độ nào đó thoát khỏi sự ràng buộc của AI. Bà nhấn mạnh, điều thế giới ngày nay thiếu nhiều hơn là các tương tác và giao tiếp giữa người với người, chứ không phải là những phản hồi cơ học tức thì.
Ông Allen cho biết, tại những nơi thiếu giáo viên chất lượng, việc huấn luyện trẻ em coi AI là công cụ giảng dạy ưu việt có thể giúp chúng học tốt hơn so với những đứa trẻ không dùng AI. Một phần lý do là vì văn hóa số hiện nay quá phổ biến, nên sự thích ứng đồng nghĩa với việc về cơ bản chúng ta đang thích ứng với những chuẩn mực đang liên tục được áp đặt từ trên xuống dưới.
Từ khóa trí tuệ nhân tạo AI
