Dư nợ tín dụng đang chuyển động từng ngày, chính sách tiền tệ vẫn tiếp tục trên đà nới rộng. Tính tại thời điểm 18/6, dư nợ tín dụng trên GDP không phải là con số 134% như Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng công bố hôm trước, mà đã nhích lên ngưỡng 136%.

b8615376c100765e2f11
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Thị Hồng phát biểu, trả lời chất vấn tại Quốc hội. (Ảnh: VOV.vn)

Cập nhật số liệu đến ngày 18/06/2025, ông Nguyễn Phi Lân, Vụ trưởng Vụ Dự báo, thống kê – Ổn định tiền tệ, tài chính (NHNN) cho biết, dư nợ tín dụng toàn hệ thống đạt 16,73 triệu tỷ đồng, tăng 7,14% so với cuối năm 2024, tăng 18,71% so với cùng kỳ năm 2024 (cùng kỳ năm 2024, dư nợ tín dụng tăng 3,87% so với tháng 12/2023).

Trước đó, ngày 19/6, tại Hội trường Quốc hội, Thống đốc Ngân Hàng Nhà nước Nguyễn Thị Hồng đã công bố con số cập nhật của tháng 5, dư nợ tín dụng toàn hệ thống đạt 16,49 triệu tỷ đồng, tăng 5,59% so với cuối năm 2024 và tăng 18,67% so với cùng kỳ năm 2024.

Có thể thấy dư nợ tín dụng đang chuyển động từng ngày, chính sách tiền tệ vẫn đang tiếp tục nới rộng. Tính tại thời điểm 18/6, dư nợ tín dụng trên GDP không phải là con số 134% như Thống đốc Nguyễn Thị Hồng công bố nữa, mà đã nhích lên mức 136%.

Theo Thống đốc, nếu tỷ lệ dư nợ tín dụng/GDP tiếp tục tăng sẽ tiềm ẩn rủi ro cho hệ thống ngân hàng và gây hệ lụy cho nền kinh tế, khó đạt mục tiêu vừa tăng trưởng kinh tế cao, vừa bền vững.

Cần đa dạng hóa dòng vốn đầu tư, tránh phụ thuộc vào nguồn tín dụng trong nước

Bà Hồng đánh giá “Việt Nam thu hút vốn đầu tư nước ngoài nhiều nhưng chưa tận dụng được nhiều lợi thế về nguồn vốn, chuyển giao công nghệ, kỹ năng quản trị và chưa có sự kết nối của khu vực này và doanh nghiệp trong nước”.

Do đó, Thống đốc cho rằng, thời gian tới cần có sự “làm mới” trong chiến lược thu hút vốn FDI theo hướng đẩy mạnh chuyển giao công nghệ, quản trị và gắn với nền kinh tế trong nước nhiều hơn.

Bà Hồng cũng nêu lên thực trạng, vốn trong nước hiện nay đang phụ thuộc rất lớn hệ thống ngân hàng, kể cả vốn ngắn hạn lẫn vốn trung, dài hạn. Bà đề nghị các bộ, ban ngành phải tìm giải giáp đa dạng hóa nguồn vốn, để tránh dựa vào nguồn tín dụng trong nước như hiện nay.

Thống đốc gợi mở, vốn nước ngoài rất đa dạng như vốn FDI, vốn FII, vay nợ nước ngoài… Với chỉ tiêu nợ công, nợ nước ngoài hiện nay, dư địa vay nợ nước ngoài của Việt Nam còn rất rộng mở.

Đây là vấn đề mà các bộ ngành, nhất là Bộ Tài chính, thời gian tới cần hết sức lưu ý khi cân đối vốn cho các mục tiêu tăng trưởng kinh tế cao“, Thống đốc đề nghị.

Lãnh đạo NHNN cũng cho rằng, cầu vốn đầu tư trong nước thời gian tới là rất lớn. Từ nay đến năm 2030, tầm nhìn 2045 và đặc biệt 2030, dự kiến sẽ triển khai nhiều công trình có nguồn vốn đầu tư lớn, ví dụ như xây dựng thêm 2.000 km đường cao tốc (hiện đang triển khai dự án cao tốc Bắc Nam với tổng vốn đầu tư lớn), đầu tư xây dựng nhiều sân bay, bến cảng, quy hoạch điện VIII…

Thống đốc khuyến nghị, ngay từ bây giờ, các bộ, ngành chức năng cần tính toán huy động vốn từ đâu, khả năng vay và trả nợ như thế nào, thời gian phân kỳ vốn, dự phòng nguồn vốn ra sao… để đảm bảo không tạo áp lực lớn để rủi ro vĩ mô.

Về phía ngành ngân hàng, để đạt mục tiêu GDP trên 8% năm nay, chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng được NHNN đưa ra năm nay là khoảng 16%. Thống đốc cho biết chỉ tiêu này sẽ được kiểm soát, điều chỉnh phù hợp thực tế.

Trong bối cảnh kinh tế có độ mở lớn, thời gian qua điều hành chính sách tiền tệ có nhiều cố gắng. Thời gian tới, NHNN sẽ tiếp tục bám sát diễn biến để thực hiện các công cụ điều hành, thời gian và liều lượng hợp lý để kiểm soát lạm phát, ổn định vĩ mô, ổn định thị trường tiền tệ ngoại hối và an toàn hệ thống ngân hàng. Đây là điểm căn cốt bởi nếu kinh tế vĩ mô, tiền tệ, ngoại hối biến động như trước đây thì doanh nghiệp rất khó phát triển”, Thống đốc cho hay.

Bài học của tăng trưởng tín dụng giai đoạn 2007 – 2009 vẫn còn nguyên giá trị

Cảnh báo của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Thị Hồng nhắc lại những diễn biến tương đồng của giai đoạn 2007-2009 – một chương đáng nhớ trong lịch sử kinh tế Việt Nam, khi chính sách tiền tệ mở rộng quá mức đã đẩy nền kinh tế vào vòng xoáy bất ổn nghiêm trọng.

Tại phiên chất vấn của Quốc hội tháng 5/2008, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Võ Hồng Phúc đã từng đưa ra một dự báo gây “choáng váng”: lạm phát năm đó có thể lên tới 22%. Dự báo của ông Phúc năm đó dựa trên lập luận: tăng trưởng tín dụng năm 2007 đã vọt lên 52%, và tổng phương tiện thanh toán tăng 46,7%. Đây là những con số chưa từng có tiền lệ.

Tăng trưởng tín dụng giai đoạn 2007-2008 đã gấp 3-4 lần mức thông thường, hoàn toàn vượt khỏi tầm kiểm soát. Dòng tiền chảy vào vào nền kinh tế ồ ạt, khiến các doanh nghiệp nhà nước đầu tư tràn lan, các dự án đầu tư công nở rộ không kiểm soát. Hệ lụy của giai đoạn này đã kéo dài về nhiều mặt và vẫn còn đang được xử lý cho đến tận bây giờ.

Hệ quả là nền kinh tế rơi vào tình trạng lạm phát tăng cao (đạt đỉnh 18,6% vào năm 2011), bong bóng bất động sản phình to, hấp thụ phần lớn nguồn lực phát triển kinh tế. Theo tính toán của Tổng cục Thống kê, Chỉ số CPI đã tăng gần gấp đôi trong giai đoạn 2006-2012.

Đứng trước tình hình cấp bách, đầu năm 2011, Chính phủ đã tổ chức một cuộc họp chưa từng có tiền lệ với tất cả các địa phương và bộ, ngành để bàn về các giải pháp ổn định nền kinh tế. Từ cuộc họp này, Nghị quyết 11 tháng 2/2011 ra đời, yêu cầu thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng; chính sách tài khóa thắt chặt, cắt giảm đầu tư công, và giảm bội chi ngân sách nhà nước.

Tinh thần “ổn định vĩ mô để phát triển” đã được quán triệt trong mọi nghị quyết và chỉ đạo từ đó đến nay. Điều này được thể hiện rõ qua các Nghị quyết của Quốc hội và Nghị quyết 01 của Chính phủ hàng năm, luôn nhấn mạnh ổn định kinh tế vĩ mô là ưu tiên hàng đầu.

Quay trở lại ngưỡng báo động, hiện nay dư nợ tín dụng toàn hệ thống đã chạm mức 136% GDP và tiếp tục giải ngân khoảng 500 ngàn USD mỗi ngày. Phía trước còn nhiều dự án đầu tư “hàng chục tỷ đô la” được đề xuất, nếu tất cả đều dựa vào nguồn vốn trong nước, sẽ đẩy quy mô tín dụng toàn hệ thống lên mức khó kiểm soát.

Bài học từ cuộc khủng hoảng kinh tế 2008 chưa bao giờ chìm xuống, Tổng dư nợ toàn hệ thống ngân hàng vẫn đang tiếp tục tăng lên từng ngày, khối lượng nợ xấu tiếp tục phình to. Với những yếu tố không chắc chắn kể trên, nguy cơ của một cuộc khủng hoảng tương lai vẫn hiện hữu, nếu xảy ra thì quy mô sẽ lớn hơn, hậu quả sẽ nặng nề hơn.

Nguyên Hương (t/h)

Vì sao "ngũ đại xú nữ" vô cùng xấu xí lại có được hôn nhân mỹ mãn?