Nhiều nhà nghiên cứu đã thu thập các dữ liệu, trong đó chỉ ra rằng số người tử vong thực tế do COVID-19 trên toàn cầu có thể cao hơn gấp nhiều lần so với báo cáo chính thức (khoảng 4,8 triệu ca thiệt mạng).

COVID-19
(Ảnh minh họa: Par PradeepGaurs/Shutterstock)

Trong 18 tháng qua, sống trong căn hộ ở Tel Aviv, Ariel Karlinsky đã tìm kiếm trên mạng dữ liệu có thể giúp anh tính toán số người tử vong thực sự do COVID-19.

Sinh viên kinh tế 31 tuổi tại Đại học Hebrew ở Jerusalem trước đây chưa bao giờ làm việc về các vấn đề liên quan đến sức khỏe, nhưng anh đã hoài nghi trước những thông tin rằng tỷ lệ tử vong do COVID-19 ở Israel không nhiều hơn con số mà đất nước đã lường trước, và do đó COVID-19 không phải là chuyện nghiêm trọng.

“Tất nhiên, điều này không đúng. Tỷ lệ tử vong cao hơn những gì được báo cáo là điều chắc chắn và rất rõ ràng”, Karlinsky nói.

Tiếp đến là những hoài nghi về tỷ lệ tử vong ở một số quốc gia không áp dụng các biện pháp hạn chế hoặc áp dụng rất ít. Tuy nhiên, việc nắm giữ dữ liệu để chứng minh điều đó khó hơn.

Karlinsky cho rằng hầu hết các quốc gia đều thống kê thiếu số ca tử vong do đại dịch. Việc thu thập dữ liệu đó của nhiều quốc gia sao cho gần với thời gian thực nhất được xem là một thách thức.

Karlinsky đã gặp nhà khoa học dữ liệu Dmitry Kobak tại Đại học Tübingen ở Đức, người cũng đang cố gắng làm điều tương tự và họ đồng ý hợp tác. Trong khi Karlinsky tìm kiếm các con số, thì Kobak tham gia công việc phân tích.

Kết quả là họ đã cho ra Tập dữ liệu về Tử vong Thế giới (World Mortality Dataset). Tập dữ liệu này đã tạo cơ sở cho các ước tính về tỷ lệ tử vong do COVID-19 được công bố trên tờ Economist, Financial Times và nhiều tờ báo khác.

Các con số thực tế được công bố trên các tờ này thường cao hơn gấp nhiều lần so với con số được báo cáo chính thức trên toàn cầu là 4,8 triệu người thiệt mạng. Ví dụ, tờ Economist đưa ra con số thực tế là gần 16 triệu người.

Những người đo lường tác động của thảm họa sức khỏe cộng đồng đã hoan nghênh nỗ lực của Karlinsky và Kobak. Số người thiệt mạng trong đại dịch có thể được đo lường theo nhiều cách khác nhau, tất cả đều có ưu và nhược điểm. Con số chính thức được lấy từ các báo cáo quốc gia về số ca tử vong do COVID-19, nhưng những báo cáo này phụ thuộc vào tỷ lệ xét nghiệm và hầu như luôn bị đánh giá thấp.

Sondre Ulvund Solstad, nhà báo chuyên về dữ liệu, người dẫn đầu nỗ lực theo dõi đại dịch của Economist, cho hay: “Các con số chính thức về số người tử vong vì COVID-19 không đáng tin cậy ở phần lớn quốc gia”.

Cách tính số ca tử vong dựa trên xét nghiệm là một cách tính lỗi thời, đã được sử dụng để ước tính tỷ lệ tử vong của các đại dịch trong lịch sử. Ở những nơi mà điều kiện xét nghiệm còn hạn chế, cách tính này trở nên đặc biệt không đáng tin. Trong khi đó, các con số về lượng người thiệt mạng thực tế được ước tính không phụ thuộc vào tỷ lệ xét nghiệm.

Cách tính tổng quát không chỉ ghi lại những ca tử vong trực tiếp do COVID-19, mà còn thống kê cả người tử vong có liên quan gián tiếp đến đại dịch, chẳng hạn như bệnh nhân ung thư không được điều trị kịp thời, hoặc nạn nhân bị bạo hành trong gia đình trong thời gian phong tỏa hoặc hạn chế.

Karlinsky và Kobak đã thu thập các nguồn dữ liệu địa phương từ những quốc gia nghèo thông qua các nhà báo, học giả, và áp dụng những kỹ thuật ngoại suy khác nhau để đưa ra ước tính. Bên cạnh đó, họ cũng ước tính dựa trên dữ liệu sẵn có từ một quốc gia láng giềng của một đất nước, điều chỉnh các yếu tố như mật độ dân số, chiến lược xét nghiệm COVID-19 và tự do thông tin.

Dữ liệu không chắc chắn là lý do mà Karlinsky và Kobak tránh việc ước tính tổng số người thiệt mạng trên toàn cầu. Tuy nhiên, họ cho biết trung bình ở mỗi quốc gia, số ca tử vong thực tế có thể cao hơn 1,4 lần so với con số được báo cáo.

Ngoài ra, mô hình của Solstad, nhà báo chuyên về dữ liệu của Econmist, đưa ra con số tổng quát từ 9,9 triệu đến 18,5 triệu người thiệt mạng. Đây là một phạm vi mà nhà dịch tễ học Simonsen thấy hợp lý.

Bên cạnh đó, để so sánh với lịch sử, các nhà dịch tễ học Simonsen và Viboud đã đưa ra ước tính về tỷ lệ tử vong thực tế cho những đại dịch trước đó và điều chỉnh chúng cho phù hợp với dân số thế giới vào năm 2020.

Họ ước tính rằng 4 trận đại dịch cúm xảy ra vào các năm 1918, 1957, 1968 và 2009 nếu diễn ra ở hiện tại thì sẽ có số người tử vong thực tế lần lượt là 75 triệu, 3,1 triệu, 2,2 triệu, và 0,4 triệu. Họ kết luận rằng COVID-19 là đại dịch lấy đi mạng sống của nhiều người nhất trong vòng 1 thế kỷ qua.

Thống kê không đáng tin cậy về số ca tử vong do COVID-19

Tập dữ liệu về Tử vong Thế giới chứa thông tin của hơn 100 quốc gia. Hầu hết các nước châu Phi và châu Á đều nằm trong danh sách đếm thiếu số ca thiệt mạng.

Ví dụ, Ấn Độ là quốc gia không thường xuyên công bố dữ liệu quan trọng, nhưng một số nhà nghiên cứu ước tính số người thiệt mạng do COVID-19 ở nước này có thể lên tới 4 triệu người, thay vì hơn 450.000 người như được công bố.

Bộ dữ liệu mới cũng chỉ ra rằng các quốc gia từng bùng phát dịch nghiêm trọng như Ý, Tây Ban Nha và Anh, không thực sự bị ảnh hưởng nặng nề nhất.

Theo tính toán của các nhà nghiên cứu, Mexico và Bolivia, và một số quốc gia ở Đông Âu (những nước có tỷ lệ tử vong cao hơn 50% so với báo cáo) nằm trong số những nước bị tàn phá nhiều nhất do đại dịch. Peru có thể là quốc gia bị ảnh hưởng nặng nề nhất, trong đó ghi nhận mức tăng 150%.

Một số nước đã yêu cầu cơ quan thống kê quốc gia của họ đẩy nhanh việc thu thập và công bố dữ liệu quan trọng của đầu năm 2020, nhưng một số nước khác vẫn chưa thể làm được điều này.

Thổ Nhĩ Kỳ dự kiến ​​công bố dữ liệu quan trọng hàng tháng của năm 2020 vào đầu mùa hè năm 2021. Nhưng cho đến hiện tại, nước này vẫn chưa đưa ra công bố nào mới.

Karlinsky cho biết: “Thổ Nhĩ Kỳ là một ví dụ điển hình. Họ đã tính toán được những con số mới nhưng không công bố do không muốn giải thích sự khác biệt”.

Tháng 2/2020, trên tạp chí Significance do Hiệp hội Thống kê Hoàng gia Anh xuất bản, Kobak đã giải thích rằng tỷ lệ tử vong do COVID-19 thực tế của Nga có thể cao hơn 6,5 lần so với con số được công bố.

Theo The Guardian,

Phan Anh

Xem thêm: