Chút lòng biết ơn
- Vũ Thế Thành
- •
Tôi từng nhiều lần muốn ghé thăm Cảng Thị Nước Mặn, vì đó là nơi hình thành ra chữ quốc ngữ phôi thai, trước khi giáo sĩ Đắc Lộ (Alexandre de Rhodes) hệ thống hóa qua quyển Tự điển Việt-Bồ-La. Tháng ba vừa rồi, các bạn ở Quy Nhơn chở tôi đến thăm nơi đó.
Cảng Thị Nước Mặn nằm trên nhánh sông Côn đổ ra biển qua đầm Thị Nại. Quy Nhơn tôi đã nhiều lần đến vì công việc, có khi đi thăm nơi này, nơi nọ. Đầm Thị Nại tôi cũng từng đến ăn nhậu cách nay hơn hai mươi năm. Đúng là đọc sách qua loa, lại thêm dốt nát về địa lý nên tôi mới bỏ lỡ “Nước Mặn” cả hơn chục lần!
Gọi là “Nước Mặn” có lẽ vì nước sông nơi đây… mặn, do nằm sát đầm Thị Nại đổ ra biển. Thêm chữ “Cảng Thị” vì thương thuyền từ cửa biển Thị Nại cập cảng buôn bán. Nước Mặn là một trong ba cảng giao thương quốc tế lớn của Đàng Trong gần năm trăm năm trước. Thương buôn người Hoa, Nhật, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Pháp… đến buôn bán, các giáo sĩ phương Tây cũng tìm đến để truyền giáo, biến Nước Mặn thành khu phố sầm uất.
Năm 1617, giáo sĩ Dòng Tên Francesco de Pina (người Bồ Đào Nha) được cử đến đến Hội An. Năm 1618, Pina cùng với hai giáo sĩ người Ý Borri và Buzomi đến Nước Mặn để thành lập cư sở truyền giáo. Trong thời gian một năm ở Hội An, không hiểu thừa sai Pina đã học cách nào mà vốn liếng tiếng Việt của ông rất khá. Tại Nước Mặn, Pina đã tìm cách Latinh hóa tiếng Việt (với sự trợ giúp của Borri Buzomi?). Đây có thể xem là chữ quốc ngữ phôi thai nhất.
Hai năm sau Pina trở lại Hội An, rồi năm 1623 đến Thanh Chiêm (thủ phủ Quảng Nam). Những năm này Pina đã giảng đạo trực tiếp bằng tiếng Việt. Năm 1624, giáo sĩ Đắc Lộ mới đến đây và học tiếng Việt với Pina.
Đa số các giáo sĩ đến Đàng Trong trước đó đều đã qua thời gian ở Trung Hoa hoặc ở Nhật, nên có thể giao thiệp với kiều dân Hoa Nhật, nhờ họ thông dịch khi truyền giáo. Rồi lần lần, các giáo sĩ cũng biết tiếng Việt, nên từ năm 1620, họ đã soạn thảo một sách giáo lý bằng chữ Nôm với sự cộng tác của người Việt.
Theo sách “Lịch sử chữ Quốc ngữ 1620-1659” của Đỗ Quang Chính (ấn bản năm 1972), tác giả đoán rằng, ắt hẳn Pina cũng đã soạn một sách giáo lý tương tự bằng chữ quốc ngữ, có lẽ chỉ được chép tay, vì Pina được xem là thông thạo tiếng Việt nhất lúc đó. Cuối năm 1625, Pina mất trong một vụ đắm thuyền ở Quảng Nam. Cả hai bản chép tay sách giáo lý bằng chữ Nôm, và bằng chữ Việt hiện không tìm thấy.
Dù chưa đọc bản chép tay của giáo sĩ Pina, Đỗ Quang Chính đưa ra hai suy đoán về chữ quốc ngữ mà Pina viết, cũng chính là giai đoạn sơ khởi của chữ quốc ngữ.
– Chưa phân biệt được lối cách ngữ như ngày nay, chẳng hạn Unsai (ông Sãi), Ungue (ông nghè), Annam (An Nam)…
– Chưa đánh dấu thanh.
Suy đoán của Đỗ Quang Chính không phải là vô lý. Ông đưa ra bảy dẫn chứng tài liệu viết tay từ năm 1621-1626 của các giáo sĩ, bao gồm cả tài liệu viết tay của Đắc Lộ viết năm 1625 (khi ông vừa học tiếng Việt với Pina được một năm), trong đó Đắc Lộ ghi Hải Nam là “Ainão”. Tôi kể thêm ra đây tài liệu viết tay của Borri và Buzomi (hai người đã theo Pina về Nước Mặn) cũng do Đỗ Quang Chính dẫn chứng:
– Thừa sai Borri rời Đàng Trong từ năm 1621. Năm 1631 ông xuất bản sách về Đàng Trong bằng Ý ngữ, trong đó có các chữ quốc ngữ kiểu từ năm 1621 trở về trước. Ông viết: Kemoi (Kẻ Mọi), Quignin (Quy Nhơn), doij (đói)…
– Thừa sai Bozomi, trong một thư viết bằng Ý ngữ năm 1626 gửi bề trên có ghi: xán tí (Xán Tí), thien chu (Thiên Chủ), ý nói Thiên Chúa, nhưng trước đó, năm 1622, cũng trong thư Bozomi viết từ Nước Mặn gửi bề trên, ông vẫn dùng “thienchu”.
Như vậy, từ năm 1626 (sau khi Pina mất), chữ quốc ngữ phôi thai đã có chút cải tiến, viết cách ngữ chứ không viết dính liền như trước đó và cũng có vài từ có dấu.
Tuy nhiên, gần năm mươi năm sau, đã có sự lật ngược thú vị về những suy đoán của tác giả Đỗ Quang Chính khi mới đây, hai tài liệu viết tay của Pina năm 1623 đã được tìm thấy do công sức của R. Jacques, một linh mục người Pháp, đã bỏ hơn mười năm lục lọi trong các thư viện Dòng Tên ở châu Âu và phát hiện ra tại thư viện Hoàng gia Bồ Đào Nha. Tài liệu này được trưng bày trong Hội thảo về chữ quốc ngữ Việt tại Lisbon vào tháng 7-2018. Trong tài liệu viết tay của Pina, có những câu sau: Tôi là kẻ mọn, ai nấy lo sư mình, ai muốn thì làm, ai có cơm thì ăn… (Xem ảnh chụp trang viết tay của Pina). Rõ ràng Pina đã viết cách ngữ và bỏ dấu, rất gần với chữ quốc ngữ ngày nay.
Sự kiện lật ngược thú vị này đã được Trần Nhật Vy tường thuật trong phần ba của loạt bài về chữ quốc ngữ trên báo Tuổi Trẻ.
Thế còn Đắc Lộ thì sao? Công trình lưu danh của ông là quyển tự điển Việt – Bồ – La in năm 1651 tại La Mã. Trong Lời mở đầu, Đắc Lộ cũng nhắc đến hai công trình đi trước là, tự điển Việt – Bồ và Bồ – Việt ở dạng bản thảo của hai giáo sĩ Gaspar d’Amaral và Antonio Barbosa mà ông có trong tay (hai bản thảo này hiện chưa tìm thấy). Ngoài ra, Đắc Lộ còn viết quyển “Phép giảng tám ngày”, một sách dạy giáo lý song ngữ La – Việt.
Hình thành chữ quốc ngữ có sự góp sức nhiều giáo sĩ Dòng Tên tại Việt Nam, trong đó đáng nể nhất là thừa sai Francisco de Pina, kế đó là Đắc Lộ, thừa hưởng di sản từ những người đi trước, hệ thống hóa lại qua quyển tự điển Việt-Bồ-La, làm nền cho việc phát triển Quốc ngữ sau này.
Cuối thế kỷ 18, do bồi lắng sông ngòi, hoạt động địa chấn đã khiến Cảng Thị Nước Mặn bắt đầu suy tàn. Khi tôi đến, trụ sở truyền giáo Nước Mặn chỉ còn di tích là nền đất, một cây đa (bê tông) nhiều nhánh và bia tưởng niệm nơi hình thành chữ quốc ngữ phôi thai, được dựng trên nền được cho là nhà nguyện năm xưa. Gần đó là giếng nước, cũng được cho là các thừa sai Dòng Tên đã từng sử dụng.
Trụ sở truyền giáo Nước Mặn, sau đó được chuyển về vùng Làng Sông, cách Nước Mặn năm, sáu cây số. Tại đây, ngoài công việc truyền giáo, nhà dòng đã xây dựng nhiều cơ sở như nhà thờ, nhà in và sau cùng là tiểu chủng viện Làng Sông. Đây cũng là nơi in chữ quốc ngữ đầu tiên tại Việt Nam.
Tôi cũng ghé thăm tiểu chủng viện Làng Sông, xây dựng cách đây khoảng 180 năm. Đây là cơ sở tôn giáo đẹp nhất Việt Nam mà tôi từng đến. Cơ sở của tiểu chủng viện hiện nay do các soeur quản lý vì quy mô không còn đáp ứng với nhu cầu đào tạo linh mục.
Tôi không phải là nhà nghiên cứu sử học, văn học hay ngữ học gì cả, viết bài này chỉ để ghi nhớ chuyến đi thăm Cảng Thị Nước Mặn, nơi hình thành chữ quốc ngữ phôi thai. Để viết, tôi dựa vào hai tài liệu chính:
1- Sách “Lịch sử chữ Quốc ngữ 1620-1659” của Đỗ Quang Chính, Tủ sách Ra Khơi xuất bản năm 1972 tại Sài Gòn. Tôi mua quyển này cũng cả năm mươi năm rồi, chỉ đọc qua loa, nhớ qua loa, lại dốt nát địa lý nên cứ nghĩ trong đầu Nước Mặn hẻo lánh đâu đó ở Quảng Nam. Đến Quy Nhơn nhiều lần mà bỏ lỡ nơi mình muốn đến là vì thế. Sau khi ghé thăm Nước Mặn, tôi mới chịu đọc tử tế. Sách viết đúng phương pháp sử học, nên đọc muốn… lòi con mắt.
2- Tài liệu thứ hai là loạt bài đăng bảy kỳ trên báo Tuổi Trẻ của Trần Nhật Vy. Bài viết trải dài từ lúc hình thành chữ quốc ngữ phôi thai đến thời Đắc Lộ, cho tới giai đoạn phát triển viết báo, viết văn bằng quốc ngữ với Petrus Ký, Huỳnh Tịnh Của, Trương Minh Ký. Tài liệu này dễ nuốt hơn, nhưng để viết công phu như vậy, tôi đoán tác giả cũng phải ghi chép, lật qua lật lại các sử liệu muốn gãy tay còn hơn cả tôi.
Tuy nhiên, có một điểm tôi không đồng ý với Trần Nhật Vy, khi tác giả cho rằng: “Gần một thế kỷ chiếm đóng Việt Nam, người Pháp đã dành nhiều công sức để tuyên truyền “Giáo sĩ Đắc Lộ, tác giả của cuốn tự vị Việt – Bồ – La là người đầu tiên sáng tạo chữ Việt”.
Lúc đó đã tìm ra tài liệu viết tay của Pina đâu mà không cho rằng Đắc Lộ là người xứng đáng nhất. Còn bản thảo chép tay của Gaspar d’Amaral và Antonio Barbosa đến nay vẫn chưa tìm thấy. Pháp cổ súy chữ quốc ngữ để tiện cho việc cai trị của họ, nhưng cũng là cái lợi cho Việt Nam cho đến tận giờ và sau này. Các giáo sĩ phương Tây đã đến Nhật và Trung Hoa, và đã Latinh hóa tiếng hai nước này trước nước ta, nhưng có ăn thua gì đâu.
Ngay cả các linh mục Đỗ Quang Chính và Thanh Lãng, dù cho rằng việc tạo ra chữ quốc ngữ là công trình của nhiều giáo sĩ Dòng Tên, nhưng cũng phải thừa nhận Đắc Lộ là người xứng đáng nhất (hai vị này cũng chưa đọc được bản viết tay của Pina).
Thừa sai Francisco de Pina được chôn cất sau nhà thờ Phước Kiều, nay là nhà thờ Thánh Andre, Điện Bàn, Quảng Nam. Tôi đọc bài của Trần Nhật Vy mới biết thông tin này. Khi nào có dịp đi Quảng Nam sẽ ghé, thắp nén hương cho Pina.
Đến trụ sở truyền giáo Nước Mặn, chúng tôi là khách duy nhất. Vắng vẻ, lặng lẽ. Nếu đến Quy Nhơn, bạn nên ghé thăm nơi này một chút, cả tiểu chủng viện Làng Sông, cách trung tâm thành phố Quy Nhơn không xa đâu. Nếu muốn tìm hiểu lịch sử chữ quốc ngữ, đọc loạt bài của Trần Nhật Vy là đủ. Đọc để biết, việc tạo ra quốc ngữ không dễ dàng chút nào, nhất là với người phương Tây. Hãy nghe thừa sai Borri, một trong những người góp phần tạo ra chữ quốc ngữ viết: “Người nào có tài về âm nhạc, biết phân biệt âm thanh thì tiếng Việt là tiếng dễ dàng đối với họ”.
Đọc lịch sử quốc ngữ cũng để tỏ một chút lòng biết ơn với những người đã tạo ra thứ chữ chúng ta đang đọc, đang viết hiện nay, chứ không phải như có vài kẻ vô ơn, lên án những thừa sai là tay sai thực dân bằng chính quốc ngữ, mà ẩn nấp phía sau là lòng tỵ hiềm tôn giáo hẹp hòi. Họ không cần đến bia đá, mà sẽ là bia miệng.
Vũ Thế Thành
Đăng lại từ Facebook Vũ Thế Thành
Mời độc giả tìm đọc các tác phẩm “Sài Gòn, một góc ký ức và bây giờ” và “Những thằng già nhớ mẹ” của tác giả Vũ Thế Thành cùng một số tác phẩm khác tại đây.
Xem thêm cùng tác giả:
Từ khóa Vũ Thế Thành
