Dưới đây là một câu truyện “đề của” do các bà già con trẻ vùng chợ Chờ Bắc Ninh còn truyền tụng. Tác giả kể lại những điều nghe thấy trong khi đi kinh lý; nhưng ở đoạn kết, không quên giải thích bằng khoa học những chi tiết mà từ xưa tới nay, người ta vẫn gán cho một tính cách dị đoan huyền bí…

*

Chợ Chờ có từ đời thượng cổ ở địa phận huyện Phù Dung thuộc Đẳng Châu (Chợ Chờ hiện nay thuộc địa hạt tỉnh Bắc Ninh). Bên cạnh chùa có một cái chợ, thường gọi là chợ Chờ; chợ tuy nhỏ nhưng “trên bến dưới thuyền”, đông người mua bán nên có vẻ sầm uất. Dân cư bốn tổng quanh đây cứ ngày 3 và ngày 7 thường đem đến đây bán rau, dưa, ngô, khoai, thóc, gạo, vừng… Thỉnh thoảng có thuyền buôn qua lại đem hàng đến, cho hàng đi, làm cho bến chợ tăng phần hoạt động, nhất là những phiên chính. Về mùa buôn thịnh hành, gặp có đêm trăng sáng, gió thuận buồm xuôi, mấy cô lái thuyền chở qua bến chợ Chờ nhịp nhàng cất giọng hò đò đưa, khi bổng lúc trầm, thật là du dương trong quãng vắng đêm khuya. Hát rằng:

Chợ Chờ trên bến dưới thuyền,
Có sông Ngọc Trụ, có đền Kim Quy.
Đền Kim Quy tứ vi cổ thụ,
Sông Ngọc Trụ thủy tú minh đường.
Những khi thanh vắng đêm trường,
Nào ai trông thấy rùa vàng qua sông?

Trong câu hát đò đưa trên kia, ta đã thấy mô tả cái vẻ sầm uất của chợ Chờ, cái cảnh êm ái của đền Kim Quy và cái linh địa lý của con sông Ngọc Trụ. Ta lại thấy ở trong câu hát ấy một truyện hoang đường làm cho người ta băn khoăn nghĩ, ấy là truyện rùa vàng. Vàng thật kim khí, chứ không phải rùa sắc vàng ngoi qua sông những khi thanh vắng đêm trường…

Truyện hoang đường kia đã làm cho chúng ta để ý đến một ngôi đền cổ ở đằng đầu chợ. Trên một khoảng đất cao, hình vuông, chung quanh có cây cổ thụ, gốc khúc khuỷu, cành lá um tùm, là nơi nương náu của lũ quạ già và cũng là nơi leo trèo của bọn trẻ chăn trâu. Chính giữa khoảng đất ấy, có một ngôi đền nhỏ xây cuốn, vôi trát ở ngoài đã theo thời gian mà trôi đi mất cả, còn để lại trơ trơ cảnh gạch sứt sổ, loang lổ, rêu cáu đen sì. Trong đền chẳng có đồ thờ tự, hương cắm ngay vào lỗ thủng ở giữa kẽ hai hòn gạch trên bệ thờ.

De cua hay o hien 01
Tranh minh họa trong Văn Hóa Nguyệt San số 2 tháng 6-1952.

Trước cửa chùa, cách xa một trượng có một con rùa đá to bằng cái nia, lưng mang bia đá nét chữ đã mờ, nằm chầu vào đền. Đầu rùa ngẩng nhìn trời, hai lỗ mũi hếch lên, thủng xâu, người đến lễ bái thường cắm hương vào đó thay bát hương.

Trước cửa đền, xa hơn nữa, có một cái sân khá rộng, lát toàn gạch cổ, lâu ngày có chỗ đã ngửa nghiêng. Những nhà buôn ngô, để ở dưới xóm chợ Chờ thường phơi nhờ sân ấy.

Bà lái Tư là một nhà buôn to nhất hay chiếm mất một phần lớn sân; nhưng bà ấy lại là một người hằng tâm hằng sản nhất xóm, sân hỏng đâu bà bỏ tiền ra chữa đấy. Ngày tuần rằm, bà chăm lễ bái ở đền Kim Quy; vì bà tin tưởng rằng nhà bà buôn may bán đắt, con trai cả của bà học thành nghề thợ bạc, con trai thứ đang theo cụ Cử, mới đỗ khóa sinh và con gái út của bà mới lấy được chồng giàu, đều là nhờ thần Kim Quy, bà kêu cầu mà được cả. Bà hay tin ngưỡng và nổi tiếng là có từ tâm, thường người hoạn nạn, cứu kẻ cơ hàn, làm mọi điều phúc đức.

Hôm ấy vào đầu mùa hè, trời nắng to, bà lái Tư gánh đỗ xanh lên sân đền phơi la liệt, bà lúc đi lúc về, nhờ con bé chơi mát ở đấy coi sân giúp bà. Con bé, tên là cái Còi, là con thằng mõ trong làng, mẹ nó chết sớm, ở với bố trong một túp lều tranh dựng ở sau chùa; nó nghèo nên lên 9 tuổi mà bé bằng cái kẹo, nom chỉ bằng đứa trẻ lên 5. Nó biết thân nghèo hèn, bé bỏng, nên không dám xuống chợ chơi với trẻ con khác mà suốt ngày chỉ quanh quẩn ở trên sân chùa.

Cái Còi trước còn chơi xa, sau lần lần đến gần nong phơi đỗ xanh. Nó tỷ tê lấy đỗ rắc xuống khe gạch sân đền; rồi đổi trò chơi, nó lấy đá của bà lái Tư bỏ vào hai lỗ mũi con rùa đá nằm kề gần đấy. Bỏ vào thun thút mãi, mà chẳng thấy đầy hai cái lỗ cái mũi nom nhỏ tý kia. Ngày đầu chưa đầy, ngày hôm sau con bé lại ra công bỏ, vẫn chưa thấy đầy. Rồi nó cứ bỏ luôn mãi đến ngày thứ ba mới thấy hai lỗ mũi rùa đã ngạt đỗ xanh, không thở làm sao được nữa, bấy giờ thích chí cái Còi mới thôi; thật con bé đã bền lòng không thua gì rùa đá vậy.

Trời có cơn mưa, đỗ phơi đã già; bà lãi vội vã dồn đỗ vào thúng gánh về nhà, đến gánh cuối cùng thấy hụt mất non một thúng cái; bà lấy làm lạ, nhưng cho là đỗ non phơi già nắng thế nào cũng phải hao, rồi bỏ qua không nghĩ đến nữa.

Trời nổi gió rồi có mưa tầm tã, từ chập tối đến đêm khuya mới ngớt.

Nắng đã lâu mới có trận mưa to, cá ở hồ tù ao hãm thì nhau mà lạch nhảy nơi này đi nơi khác. Nhiều chỗ lập lòe lửa sáng, ở bờ ao, bờ chuôm, ở bãi tha ma và đền Rùa làm cho người tin nhầm tưởng là ma chơi hay ông Đống hiện lên; kỳ thực đấy chỉ là ánh sáng của người bắt cá bắt ếch ban đêm.

Ngày hôm sau, trời còn vần mây, không phơi phóng được, bà lái Tư lấy làm sốt ruột vì chưa phơi xong cót đỗ xanh.

Ngày thứ ba trời đẹp, mới tang tảng sáng mà vầng đông đã đốt cháy hầu hết những đám mây còn sót lại trên khoảng trời xanh. Bà lái đợi sáng rõ, trở dậy, chưa kịp ăn cơm đã vội gánh đỗ ra chùa phơi. Vừa đặt gánh đỗ xuống sân thì bà lái lấy làm lạ quá: cái bia đá trên lưng Rùa đã lăn xuống sân và mình con Rùa đã gãy ngang ra làm hai đoạn. Bà cố chấn tĩnh lại gần thì thấy đỗ xanh mọc mầm tung tóe ra chung quanh con Rùa vỡ. Bà gánh đỗ ra nong phơi rồi lấy thúng ra bốc lấy đỗ nứt nanh đem về ngâm làm giá ăn. Bà bốc được một thúng có ngọn rồi mà chưa hết, bà lại bốc nốt. Khi hết đỗ, bà thấy trơ ra cái gì như… vàng cốm… bà đem lên gần mắt xem, tưởng là chiêm bao, ngỡ là hoa mắt. Thực rồi, đích là vàng! Sao mà nhiều thế này! Bà trông trước nom sau, không có ai, bà bốc vàng đưa vào dưới thúng đỗ nảy mầm, bốc mãi, được một gánh nặng vàng cốm. Bà lái Tư chắp tay, tâm thành khấn thần Kim Quy, cảm tạ thần thiêng đã dùng phép thần thông làm cho đỗ xanh thành vàng cốm. Tạ thần xong, bà ung dung khiêng kĩ gánh đỗ lẫn vàng về, cất kín trong buồng, để sau cho con cái bà là thợ bạc chế thành đồ nữ trang bán dần…

Chiều hôm ấy, cả làng biết tin Rùa đã vỡ, ai ai cũng chạy đến xem. Người thì bảo sét đánh mấy hôm trước, kẻ thì rằng khách về lấy của đêm hôm mưa to gió lớn. Nhưng người ta chỉ biết rằng là mấy năm sau, bà lái Tư đã trở nên giàu có, nhà ngói cây mít, tậu ruộng nương kìn kìn, và hay làm việc phúc, đi lễ bái, lại bỏ tiền tu sửa các đền chùa; nhất là chùa Rùa được bà bỏ ra mấy nghìn bạc cho trùng tu lại, nom thật nguy nga; trong đền có bức đại tự sơn son thiếp vàng, đề bốn chữ “Kim Quy Linh Tự” ngày nay hãy còn.

Truyện ngụ ý xanh hóa ra vàng là thế, nhưng ngày nay thời khoa học và nguyên tử, chúng ta mới hiểu rằng hột đỗ xanh tức đậu nấu chè hay đậu nhỏ, do tay con Còi coi đỗ phơi đã nghịch bỏ vào hai lỗ mũi con Rùa đá, nghĩa là đầy cả bụng vì lỗ mũi ăn thông xuống bụng. Nước mưa cùng theo lỗ mũi mà chảy xuống bụng, làm cho hột đỗ chương lên nứt nanh, mọc mầm. Ta thử tưởng tượng mỗi hột đỗ chương lên gấp hai, gấp ba lần, hàng nghìn hàng vạn hột đỗ trong bụng con Rùa cũng chương lên, thì cái sức ép đẩy ở trong ấy mạnh là nhường nào, không đủ chỗ thoát, nên làm gãy đôi con Rùa để lập lại quân bình. Tại các phòng thí nghiệm khoa học tự nhiên, người ta có dùng đỗ xanh để tách bửa các mảnh sọ người hay sọ loài vật; làm thế, những mảnh sọ được chu nguyên, không có lốt dao, lốt búa, giữ trọn vẹn thiên nhiên.

Nguyễn Công Huân

Đăng trên Văn Hóa Nguyệt San số 2 tháng 6-1952
Theo bản scan đăng trên Nhà Kho Quán Ven Đường do Huỳnh Chiếu Đẳng sưu tập và chia sẻ (ndclnh-mytho-usa.org)

Xem thêm: